Giáng Uyên
Khi tôi và Alastair, anh bạn người Anh cùng khu nhà, quyết định đi Stockholm,
cô
gái Đan Mạch cũng ở chung với chúng tôi tròn mắt "Sao Paris,
Rome... không đi lại đi Thuỵ Điển?". Sau này
tôi mới hiểu được cảm xúc của cô cũng giống như của tôi khi những bạn nước khác khoe:
"Mình sắp đi Bangkok chơi nhé!", tôi cũng ngạc nhiên "Sao
Trung Quốc, Ấn Độ... không đi, lại đi Thái
Lan?". Một sự ghen tị ngấm ngầm mà những người láng giềng hay dành cho
nhau chăng? Đan Mạch và Thuỵ Điển đều là những nước Nordic, với ngôn ngữ, kiến trúc và văn hoá đặc trưng Bắc Âu, giản dị và thanh lịch với những ngôi nhà xưa xinh xắn bên hồ và những người dân tóc vàng mắt xanh hiếu khách.
Vốn thích phố cổ với những con đường nhỏ nhắn lát đá cuội và nhà xưa muôn màu nên ngay
ngày đầu tiên, tôi quyết định đến thẳng Gamla Stan. Khu
phố cổ được bảo tồn gần như nguyên vẹn từ thế kỷ 13 vì Stockholm
may mắn thoát khỏi những tàn phá của hai cuộc chiến tranh thế giới. Trên đường từ khu Bondegatan, nơi chúng tôi ở với một gia đình người địa phương trong khu chung
cư với nột thất trang trí y như vừa bước ra từ cuốn catalogue của IKEA, thành phố quả là một ví dụ rõ nét của sự kết hợp giữa Swedish grace và
minimalism.
Swedish grace (tạm dịch: Sự duyên dáng kiểu Thuỵ Điển) là cụm từ được biên tập viên tờ Kiến TRúc của Anh Architectural
Review đặt ra vào đầu thế kỷ 20, thời hoàng kim của kiến trúc đất nước lớn nhất vùng Scandinavia
này. Ngày nay, Swedish grace vẫn là nguồn cảm hứng cho kiến trúc và design của Thuỵ Điển được cả thế giới ngưỡng mộ. Nhấn mạnh vào chi tiết, các kiến trúc sư địa phương đã cộng tác với những nghệ nhân gỗ, thuỷ tinh, kim loại... để tạo ra những chiếc cổng, cửa ra vào tinh tê,
những tay vịn cầu thang, mái vòm, đầu hồi... duyên dáng và
tao nhã. Về sau, kiến trúc và nội thất hiện đại Thuỵ Điển đổi thành minimalism
(trường phái cực thiểu), với phong cách giản dị nhưng sang trọng, dùng nhiều gam màu lạnh và "đằm" rất Bắc Âu. Một người địa phương tôi đọc được trên Internet cho
biết "Có một từ trong tiếng Thuỵ Điển: lagom, nghĩa là
"vừa đủ", không quá nhiều cũng không quá
ít. Đó là cả một triết lý sống của Thuỵ Điển, không chỉ áp dụng trong kiến trúc mà còn cả ẩm thực, quần áo... Bạn không muốn nổi bật, nhưng bạn muốn có tất cả những gì bạn cần".
Nhưng dù đó là Swedish grace hay
minimalism, giản dị, lịch lãm và xinh đẹp vẫn là những cảm nhận của tôi về thành phố được xây trên 14 hòn đảo này. Stockholm được tạo thành từ ba phần bằng nhau: một phần nước, một phần công viên và một phần đô thị. Nước ở Stockholm rất sạch và xanh biếc, in bóng những thuyền đi biển đồ sộ, những ngôi nhà vuông vức nhỏ nhắn và lá vàng lá đỏ của mùa thu
Scandinavia. Vì hệ thống kênh rạch và đảo nhỏ nhiều nên Stockholm thương được ví như Venice của phương Bắc. Tôi rất tâm đắc câu nói khá
"sưng sỉa" của một nhà báo người Thuỵ Điển đang sống ở Mỹ trong một bài viết trên tờ New York Times về những ưu việt của quê hương mình so với thành phố nước Ý. Đại loại "tại sao lại ví Stockholm như
Venice của phương Bắc, đáng nhẽ phải gọi Venice là
Stockholm của phương Nam mới đúng chứ". Khách quan
mà nói, đối với tôi Venice lãng mạn, nhiều màu sắc, yêu kiều, dễ làm người ta say mê hơn..., nhưng Stockholm làm
tôi thấy dễ chịu hơn, tránh được "lực lượng" du khách
đông nườm nượp, lại hiểu thêm được nhiều về sinh hoạt người dân địa phương, thành phố lại đẹp theo kiểu rất trầm. Tôi tự ví Venice như một cô tiểu thư yểu điệu thời Phục Hưng với đầm dài lướt thướt đính hoa phớt hồng, còn Stockholm như
một nữ doanh nhân trẻ không kiểu
cách nhưng sang trọng, xinh đẹp
trong bộ váy ngắn cắt khéo.
Để đến khu phố cổ, chúng tôi đi
ngang Grand Hotel. Từ
khi giải Nobel ra đời, đây là nơi
dành riêng cho những học giả được giải đến dự lễ tại Stockholm hằng năm. Dù không được giải Nobel, bạn cũng có thể ở một trong những phòng suite dành
riêng cho những học giả lỗi lạc ấy (dĩ nhiên phải trừ dịp trao giải rồi) nều bỏ ra số tiền tương đương 23 triệu đồng một đêm. Cũng không đến nỗi quá đắt so với vật giá "trên trời" của BẮc Âu, vì khách sạn năm sao này nằm ở vị trí tuyệt vời. Từ phòng ngủ có thể nhìn thấy bến cảng với những con thuyền neo đậu, phía xa xa là Kungliga Slottet, cung điện hoàng gia đồ sộ với kiểu kiến trúc Baroque lịch lãm và quý phái.
Khi chúng tôi đến Gamla Stan, trời đã ngả về chiều và những cơn gió hiu hiu đã
làm người đi đường phải khép lại áo khoác. Chúng
tôi ngồi nghỉ chân trên bắng ghế gỗ sơn đen kê dọc quảng trương Stortorget, từng có trong một bức ảnh nổi tiếng của ban nhạc người địa phương ABBA, làm tôi tự nhiên nhớ đến những bài hát vang
bóng khi mới tập tành nghe nhạc tiếng Anh, những
"Ghimme", "Happy new year", "Dancing queen"... của một thời. Nắng hoàng hôn của mặt trời phương Bắc nhuộm vàng óng những ngôi nhà vài
trăm năm tuổi với ô cửa sổ vuông vắn xinh đẹp. Mấy giỏ hoa đỏ tươi cạnh ghế ngồi của chúng tôi vừa được tười xong, nước nhỏ long tong từ cánh hoa xuống đất.
Giống như mọi khu phố cổ ở những thành phố lớn, Gamla Stan cũng
có rất nhiều shop cho du khách, nhưng đồ lưu niệm ở đây tinh tế, bớt xô bồ hơn và vì thế cũng đắt tiền hơn. Trong những shop nhỏ xinh xắn được sắp xếp rất thẩm mỹ, tôi say mê nhìn
những đồ trang trí được bện bằng rơm vàng óng. Búp bê
len toét miệng cười và những con tuần lộc bằng gỗ được đẽo gọt rất công phu, khác hẳn với những đồ lưu niệm made in China rât
"chụp giật" ở những khu phố du lịch Châu Âu khác. Đường phố ở đây rất hẹp, chỉ dành cho người đi bộ, lao xao tiếng nói cười. Phố cổ được phối màu hài hoà, đặc biệt khi bạn băng qua hết shop lưu niệm đến phía nam khu phố, tĩnh lặng và ngái ngủ với những căn nhà màu hồng và vàng nhạt có mái đầu hồi uốn lượn, nghiêng nghiêng
trong những giọt nắng sắp tắt hẳn.
Kỉ niệm vui nhất của tôi ở Stockholm vẫn là ở cửa hàng bán thức ăn Thổ Nhĩ Kỳ doner kebab
gần khu chúng tôi ở. Hôm đó là lần thứ hai chúng tôi ăn ở đây vì món ăn
ngon, giá cả cũng tương đối chấp nhận được. Khi hai đứa đang ngồi say sưa gặm bánh kebab nóng hổi kẹp thịt bê nướng thơm ngon "nhức răng" và rau
trộn chua chua giòn giòn, tôi muốn ăn thêm một chiếc bánh nữa giá 60 kronor (*)
nhưng vì muốn tiết kiệm để dành tiền đi chơi nên quyết định sẽ mua 30 kronor tiền thịt bê không thôi.
Cũng cần phải nói thêm ở những hàng ăn châu Âu
kiểu này ít khi có "vụ" bán thức ăn thêm như ở Việt Nam, muốn ăn thêm bạn phải mua nguyên phần. Alastair một mực "mua thịt không kiểu đó ai mà bán, hỏi làm gì cho mất công không biết nữa", nhưng tôi vẫn nhất quyết đứng lên đi về phía quầy.
Hai anh chàng đứng sau quầy ban đầu có vẻ ngạc nhiên khi nghe
tôi hỏi, nhưng vẫn vui vẻ lấy dao xắt thịt từ một tảng thịt nướng lớn treo trên vách tường. Tôi bắt đầu lo lằng khi thấy các anh xắt thịt hơi quá tay, hình như nghe lộn tôi muốn 300 kronor thì phải. Dĩa thịt hai anh xắt ra nhiều gấp mấy lần thịt kẹp trong bánh. Một anh còn gắp thật nhiều rau trộn và ớt ngâm dấm vì biết tôi thích ăn cay
từ những lần mua bánh trước. Đến lúc trả tiền, tôi rụt rè đưa tờ 50 kronor ra, tưởng tượng hai anh sẽ ngạc nhiên: "Ủa, sao nói mua 300
kronor tiền thịt mà đưa có bấy nhiêu
thôi?", vậy mà họ lại xua tay không lấy tiến và cười vui vẻ.
Tôi hỏi lại lần nữa cho chắc, một anh cười bảo: "Tặng cô đó". Tôi
cảm ơn rồi hí hửng mang "chiến lợi phẩm" lại bàn. Alastair tròn mắt: "Trời, họ bán thêm thịt thiệt đó hả?". Tôi đắc thắng: "Không bán
mà tặng luôn". Ông bạn thấy vậy bắt chước mang bánh lại hỏi mua thêm 30
kronor tiền thịt thêm, nhưng chỉ một phút sau đã quay
lại, ỉu xìu: "Họ nói không bán thịt thêm" làm
tôi ôm bụng cười khùng khục. Khi chúng tôi rời hàng ăn, anh còn
cằn nhằn: "Làm con trai ở châu Âu khổ quá đi, vài bữa nữa chắc mình phải qua... Hàn Quốc sống quá!".
Trước khi sang Stockholm, Alastair có báo
phải về trước tôi một ngày. Tôi biết anh chàng này
"Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt, nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà". Vả lại sau Thuỵ Điển tôi còn cả tháng phiêu bạt châu Âu trước khi về Anh lại nên cũng thông cảm. Ngày cuối cùng của anh ở Stockholm, chúng
tôi lên xe buýt đi một vòng thành phố. Khi xe đi ngang
qua một trong số những cây cầu bắc qua hồ nước xanh phẳng lặng, không hẹn mà cả hai cùng giục: "Xuống xe nhé!" rồi dừng lại ở trạm gần nhất. Ban mai trong trẻo như một giọt sương, lá thu chưa đổi màu hết, đỏ ối chen lần xanh um xào xạc bền cầu. Phía xa, những con thuyền nằm vươn vai trên mặt nước trải dài tít tắp, thỉnh thoảng một chiếc rẽ nước bơi làm xao động mặt hồ trong chốc lát rồi tất cả lại trở về trạng thái ban đầu. Ước gì được sống ở một trong những ngôi nhà xinh xắn như hộp diêm nằm sát mặt nước, có thể mở cửa sổ ra đón gió lồng lộng và ngắm bốn mùa qua như bóng câu.
Hai ngày còn lại, tôi không ở ngôi nhà nội thất kiểu IKEA ở khu chung cư nữa mà chuyển đến gần Thuyền Đỏ (The Red Boat),
ngay gần Gamla Stan. Giống như tên gọi, nhà nghỉ là một chiếc thuyền lớn sơn đỏ thắm, trước là thuyền đi biển thực thụ, sau về neo cạnh bờ làm nơi ở cho du khách trẻ. (Ở Stockholm còn có một nhà nghỉ trước đây là nhà tù,
phòng ngủ là những... xà lim khi xưa, nhưng tính phiêu lưu của tôi cũng có giới hạn nên tôi quyết định không đặt phòng ở đó). Thuyền Đỏ được giữ lại những trang trí của thời tung hoành trên
biển, với ván thuyền kêu cót két dưới bước chân, đồng hồ hàng hải treo trên vách, vật dụng bằng gỗ nâu và những chiếc đèn dầu cũ kỹ toả ánh sáng vàng ấm áp. Thuyền được neo gần bờ, nơi hồ Malaren gặp biển Baltic và là nơi hoạt động của cướp biển Viking cách nay hơn ngàn năm. Từ khung cửa tròn nhỏ nơi giường tầng tôi nằm gần boong thuyền, có thể thấy những chiếc tàu lớn lừng lững lướt qua. Buổi tối, cảm giác bồng bềnh nhè nhẹ trên mặt nước đưa tôi vào giấc ngủ sâu, mơ thấy mình đang đi dạo ở chợ ngoài trời Stockholm có những anh chàng bán
trái cây và nấm tươi với tiếng rao hàng
"hej hej" vui nhộn.
Ngày cuối cùng, khi tôi đang chuẩn bị đồ đạc cho chuyến đi kế tiếp, tình cờ đưa mắt về khung cửa tròn nhỏ ấy, cảnh chiều buông làm tôi sững sờ. Ngay lập tức, tôi lấy máy ảnh chạy thật nhanh ra lan can
thuyền như sợ nếu chậm chân khoảnh khắc ấy sẽ biến mất. Mặt nước xanh sóng gợn lăn tăn, vài tia
nắng cuối ngày rớt xuống hắt bóng những ngôi nhà ven hồ với tháp chuông chọn như truyện cổ tích xưa.
Gió thổi lồng lộng hắt vào mặt tôi, mang theo vị mằn mặn của muối biển. Và tôi biết đây sẽ không phải lần cuối cùng tôi đến Stockholm, chắc chắn vậy!
(*) Kronor, danh từ số nhiều của krona: Đơn vị tiền tệ Thuỵ Điển. 1 krona khoảng 2.400 đồng VN. Thuỵ Điển vẫn chưa gia nhập đồng tiền chung châu Âu.
Hoàng cung (chiếu sáng ban đêm) |
Grand Hotel nơi nghỉ của các khôi nguyên giải Nobel trong dịp trao giải thưởng |
Di chúc viết tay của A.Nobel |
Nguồn:
vnthuquan-thuvienOnline
Những ngón
tay còn thơm mùi oải hương (Ngô thị Giáng Uyên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét