Translate

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

NGỌ BÁO (2)


Thành kính tưởng nhớ Chú Micro một người tài hoa mệnh bạc !

Micro: người biên tập viên đặc biệt phụ trương “Nghệ thuật thứ bảy”
Tượng vàng Oscar (Giải thưởng cao quý của Điện ảnh)

Ngày trước các báo muốn hấp dẫn bạn đọc thì cần có nhiều bài, nhiều phụ trương hay và đẹp. Tuyệt đối không có kiểu câu view với các đề tài, giết, hiếp, cướp  đầy rẫy mặt báo như một số báo chí ngày nay. Tôi nhớ suốt những năm 30-40 chỉ có một, hai vụ trọng án mà vụ án giết người rùng rợn nhất được đăng là vụ  “ Cô Cúc giết ông huyện Trường bằng 34 nhát dao”.  
 Ngày 7/6/1940 cô Cúc bị xử ở tòa Đại hình tỉnh Bắc giang. Luật sư bào chữa là ông Maillet, một luật sư giỏi người Pháp. Mức án được tuyên là 2 năm 6 tháng tù treo. Sở dĩ án phạt nhẹ là vì có các yếu tố giảm khinh : bị tình phụ và lừa dối (Trường thực ra đã có vợ), bị chấn thương thần kinh do bị tình phụ, tội danh đúng ra là cố ý giết người (tội chỉ đáng xử tại tòa tiểu hình).
Giờ ta hãy quay lại với chủ đề chính của bài đăng này là phụ trương Xi nê ma, Xi nê (Cinéma, Ciné), trong bài dùng xi nê cho tiện.
Hơn nửa thế kỷ đã qua nên tôi không còn nhớ chính xác nội dung các chương mục của tờ phụ trương này nữa. Nhưng đã là một phụ trương chuyên vè xi nê nên chắc chỉ bàn chuyện xi nê mà thôi, đó là :
bình luận phim đã chiếu, giới thiệu phim sắp chiếu có tóm tắt (bạn đọc rất thích mục này vì thời đó phim không có phụ đề tiếng Việt, và nhiều người không biết ngoại ngữ), hình ảnh thân thế và sự nghiệp các ngôi sao (minh tinh) màn bạc, các công đoạn (‘bếp núc’) của một cuốn phim v…v.
Riêng có một mục đặc biệt chỉ thấy trên phụ trương xi nê của Ngọ báo là mục “Cháo Vịt”.
Xi nê còn được tôn vinh là Nghệ thuật thứ bảy. Tôi đã được đọc nhiều bài thú vị trên phụ trương này dưới bút hiệu Micro. Không biết Micro có phải là người phụ trách trang Nghệ thuật thứ bảy không hay chỉ là người cộng tác ? Điều đó không quan trọng, cái chính là người ta rất thích các bài viết của cây bút này. 
Vậy Micro là ai ? Tôi không biết đích xác vì chưa từng gặp mặt, chỉ nghe trong gia đình kể lại. Ông vào hàng chú của tôi tên thật là Bùi Xuân Như, con út của cụ Bùi Xuân Thành. Tôi cũng không rõ năm sinh, năm mất của ông vì chưa có dịp hỏi, nhưng chắc ông mất lúc còn trẻ. Đoán như vậy vì cuối năm 1947 khi bắt đầu kháng chiến chống Pháp bà cụ thân sinh ra ông cùng người con dâu bế một em bé khoảng trên một tuổi quấn khăn tang đi qua quê nhà tôi để lên Thái Nguyên. Chắc ông lúc đó sấp sỉ 30 tuổi ? Lại nhớ câu “Người đẹp thường chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai !” 
Nhờ đọc phụ trương Nghệ thuật thứ bảy của Ngọ báo (và các báo khác nữa) tôi cũng biết một ít chuyện về xi nê, màn bạc, các ngôi sao, phim câm và phim nói. Xin được ôn lại một vài điều để tham khảo.
Khác với ảnh (photo), Điện ảnh (xinê) là các khung hình chuyển động với một tốc độ đã định (24 hình/giây) để tạo ra một chuỗi ảnh liên tiếp là cuốn phim. Đầu tiên phim chỉ có hình ảnh động không có âm thanh gọi  phim câm (năm 1895).
Hãng Warner Bros. của Hollywood là công ty đi đầu trong việc nghiên cứu áp dụng kỹ thuật thu tiếng đồng bộ (năm 1926 ). Ở Âu – Mỹ phim câm hầu như không còn chiếu từ 1930 trở về sau, tại VN chắc ngưng chiếu muộn hơn.
  
Nghệ thuật thứ bảy – màn bạc 
Khi mới được phát minh, điện ảnh chỉ được coi là các bộ phim để ghi lại các cảnh sinh hoạt đời thường ; nhưng chỉ ít lâu sau, các bộ phim đã được tạo ra với những ý đồ văn hóa nhất định và nhanh chóng trở thành một loại hình nghệ thuật quan trọng. Điện ảnh cũng trở thành một hình thức giải trí không thể thiếu trong đời sống thường nhật, đôi khi còn phát triển thành những hiện tượng văn hóa hoặc được sử dụng như các phương tiện tuyên truyền.
Xét trên phương diện nghệ thuật, điện ảnh thường được gọi là nghệ thuật thứ bảy. Sáu nghệ thuật trước đó theo phân loại của Hegelkiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múathi ca. Điện ảnh được dùng để nói đến những bộ phim trình chiếu ở rạp. Vì lý do đó, từ "màn bạc" cũng được dùng để chỉ điện ảnh (màn ảnh rạp chiếu phim có màu trắng và sáng như bạc).
Không phải thời kỳ phim câm không có Nghệ thuật thứ bảy. Chỉ trích giới thiệu một số phim câm nổi tiếng mà các cụ U70-80 có thể đã xem hay nghe nói ở VN như : The General (1927, phim Mỹ) của Buster Keaton, Metropolis (1927, phim Đức) của Fritz Lang, Thời đại tân kỳ (Modern Times 1936, phim Mỹ) của Charlie Chaplin, The Kid (1921, phim Mỹ) của Charlie Chaplin, Chiến hạm Potyomkin (Броненосец Потёмкин, 1925, phim Liên Xô) của Sergei Eise phim này sau 1954 có lần đã chiếu tại Hà Nội và sau này cả ở toàn quốc.
Trên phụ trương Nghệ thuật thứ bảy nhờ Micro tôi đã đươc biết đến các ngôi sao của cả hai thời kỳ phim câm và phim nói sau này.
Phim câm của Mỹ thì có Buster Keaton, Charlot (Charlie Chaplin), Laurel và Hardy, anh em nhà Marx (gồm Chico, Harpo, Groucho, Gummo và Zeppo. Gummo và Zeppo sau bỏ nghề điện ảnh).
-     Với Charlot ai mà quên được phim Thời đại tân kỳ (Modern Times 1936) với những cảnh cười ra nước mắt có ý phê phán kiểu sản xuất theo dây chuyền đang manh nha tại Mỹ ; những thước phim cảm động của người con gái mù được một thanh niên đường phố tặng hoa trong Ánh sáng đô thị (City Lights. 1931) ; hay trầm trồ với các bước nhảy khéo léo của hai ổ bánh mỳ thay cho hai chân người nhảy. Một phu mỏ đào vàng (do Charlot thủ vai) đã thực hiện bằng hai bàn tay những bước nhảy đó trong Đổ xô đi tìm vàng (The gold rush). Kẻ độc tài  (The Great Dictator.1940), nhắm vào đả kích Adolf Hitler. 
Charlot nổi tiếng đến nỗi người ta phiên âm tên ông là Sác lô, Vua hề Sác lô cho dễ nhớ. Nhiều danh hài VN cũng bắt chiếc lấy tên Charlot đặt trước tên mình, thí dụ Charlot M., Charlot T. v..v
-     Anh em nhà Marx (Marx Brothers) cũng nổi tiếng với những phim trong  đó tiêu biểu có :
Duck Soup (1933) tiếng Việt dịch là Cháo vịt. Tôi chắc Micro phải thích phim này lắm nên ông mới lấy Cháo vịt đặt tên cho một chuyên mục của tờ phụ trương này.
Anh em nhà Marx có 5 người nhưng thường xuyên đóng phim chỉ có Chico, Harpo, Groucho còn Gummo và Zeppo sớm chuyển sang hoạt động khác. Đôi ba phim có 4 người, riêng phim Cháo vịt là đủ mặt cả 5 anh em nhà Marx tham gia.
-     Cái khác nhau về thể hình một mập, một ốm của cặp Laurel, Hardy cũng đủ gây cười chưa kể đến sự vụng về đụng đâu hư đó cũng làm người xem cười muốn té ghế. 

  Thời kỳ phim có âm thanh
 Sang thời kỳ này chỉ còn một số ít diễn viên nổi tiếng thời phim câm như Charlie Chaplin, anh  em nhà Marx là còn hoạt động điện ảnh.
Phim có âm thanh xuất hiện đã mang thêm sức sống cho cả ngành công nghiệp điện ảnh. Micro cũng thêm đất dụng võ. Ông giới thiệu những gương mặt mới.
-     Pháp có Arletty (nữ), Fernandel, Jean Gabin, RaimuMichel Simon (nam).  
-     Mỹ có Hollywood (phiên âm tiếng Việt là Hồ-ly-vọng) được coi là kinh đô của Nghệ thuật thứ bảy của nước Mỹ với các hãng phim khổng lồ MGM (Metro-Goldwyn-Mayer), Paramount, Columbia, RKO, Warner Brothers, Universal v..v và rất nhiều diễn viên tài giỏi đã thống trị kỹ nghệ điện ảnh trong một thời gian dài. Hãy điểm qua một số gương mặt nổi tiếng :
-     John Wayne1939: La Chevauchée fantastique (Stagecoach) , một phim cao bồi kinh điển, đạo diễn John Ford.
-     Clark Gable 1939 : với Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind) một trong những phim màu đầu tiên, cũng có thời lượng vô địch 4 tiếng.
-     Robert Taylor & Vivien Leigh (nữ) trong Waterloo Bridge (La valse dans l’ombre. 1940).
-     Johnny Weissmuler với loạt phim về Tarzan. Anh là diễn viên cự phách trong vai Tarzan, đóng nhiều phim loại này nhất. Chỉ riêng từ 1932 đến 1948 anh đã có 12 phim.
Nữ thì cũng xin kể mấy diễn viên tôi thích đã được Micro điểm danh :
-     Shirley Temple, xứng đáng với hỗn danh ngôi sao nhí (sinh năm 1928), khi 6 tuổi năm 1934 đã nổi danh với phim Bright Eyes và hàng loạt phim hay khác.
-     Deanna Durbin nổi danh minh tinh màn bạc khi 14 tuổi với một loạt phim âm nhạc Three Smart Girls (1936), năm sau tiếp theo là One hundred men and a girl, Three Smart Girls Grow Up)1939Hers to hold  1943.
-     Marlene Dietrich, Greta Garbo diễn xuất rất hay nhưng phim của các ngôi sao này là loại tâm lý xã hội nặng nề, kén người xem nên khán giả ít hâm mộ.
Sẽ là một thiếu sót nếu ta quên không nói đến Walt Disney (1901- 1966), người họa sỹ tài hoa, cha đẻ của các nhân vật của phim hoạt hình : chuột Mickey, chó Pluto, vịt Donald. Ông cũng là tác giả của những bộ phim hoạt hình có giá trị như Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (1937), Chú voi biết bay Dumbo (1941 "Dumbo"), Chú nai Bambi (1942, "Bambi"), Fantasia (1940) loại phim minh họa tài tình các bản nhạc cổ điển có giá trị của Beethoven, Tchaikowski v…v với những thước phim hoạt hình tuyệt mỹ.
 
Cháo vịt (Duck soup)
Vốn như ta đã biết Cháo vịt là tên một bộ phim hài nổi tiếng của anh em nhà Marx. Mục Cháo vịt trong phụ trương Nghệ thuật thứ bảy cũng mang tính trào phúng, hoặc những chuyện tiếu lâm về xinê, hoặc chuyện hơi giật gân như bây giờ gọi thế. Xin kể một vài thí dụ :

1.   Tiếng hú của Tarzan.
Phim Tarzan là  một phim rất được ưa chuộng. Cốt truyện ly kỳ, có nhiều bầy thú dữ như sư tử, hổ báo, hắc tinh tinh, voi là những con thú mà ta thường chỉ đôi khi được xem trong Sở thú hay rạp Xiếc. Rồi còn những màn vật lộn với cá sấu dưới sông, đu dây leo trốn chạy trên cây cao. Đoạn kết lại có hậu vì thế hay được chiếu trong dịp Tết.
Khi gặp nguy hiểm, khi cần gọi các bạn là bầy voi, hắc tinh tinh đến cứu nguy Tarzan thường đưa tay lên làm loa miệng hú gọi. Tiếng hú Tarzan vang rất xa rất to. Các bạn của Tarzan biết tiếng hú đó là tiếng của người mà chúng tôn sùng như “Chúa tể rừng xanh”  kêu cứu nên ùn ùn kéo đến.
Tiếng hú Tarzan, theo lời kể lại của (David Wallechinsky trong cuốn Complete Book of the Olympics) có một lịch sử ra đời rất bi hài. Trong lúc đang quay một cảnh trong phim ‘Tarzan et sa compagne’ (1934. Tarzan và bạn đồng hành). Theo kịch bản Tarzan phải đu trên những rễ dây leo trên tàng cây cao từ cây nọ sang cây kia để chạy trốn. Đến điểm X đã định sẽ có bạn nữ đồng hành đợi sẵn. Bạn sẽ nhảy lên người Tarzan ôm lấy anh để cùng đu dây trốn đi. Đoàn làm phim cũng di chuyển theo, người ghi hình kẻ thu tiếng công việc êm xuôi. Vừa đến trường đoạn bạn đồng hành nữ (do Maureen O'Hara thủ vai, có tài liệu nói là Maureen O’ Sullivan) nhảy lên bám vào người Tarzan thì trên màn hình cảnh vật nghiêng ngả mờ ảo, như có người ngã xuống. Trong khi máy thu tiếng ghi được một tiếng rú rất to nghe rùng rợn, man rợ. Hóa ra  vì Tarzan có một cơ thể đẹp, cơ bắp cuồn cuộn. Nhà quay phim muốn khi lên hình các cơ bắp đó phải nổi bật nên đã cho thoa khắp người chàng một lớp dầu bóng. Vì thế khi Maureen O'Hara/Maureen O’ Sullivan nhảy bám vào người chàng thì bị trơn tuột suýt rơi xuống đất. May ở giây cuối cùng nàng tóm chặt được ‘của quý’ là phần duy nhất trên người không bị bôi trơn do có chiếc khố da báo che phủ. Tác giả câu chuyện kết luận. Tiếng hú Tarzan chỉ là một tiếng thét do đau đớn thể xác mà thôi, nhưng hiệu quả màn ảnh của nó lại hết sức hiệu quả và con để lại  mãi sau này. Câu chuyện này không có thật do đoàn quay bịa ra để chọc ghẹo Tarzan mà thôi !
2.Từ một diễn viên điện ảnh nhỏ tuổi nhất đoạt giải Oscar trở thành nhà ngoại giao.
Shirley Temple Black (nhũ danh Temple, sinh ngày 23 tháng 4 năm 1928 mất ngày 10 tháng 2 năm 2014) từng là ngôi sao nhí, nữ diễn viên điện ảnh, vũ công nhảy thiết hài (claquettes), ca sĩ, nhà viết tự truyện người Mỹ, nguyên đại sứ Hoa Kỳ tại GhanaTiệp Khắc. Bà còn là nữ diễn viên tài năng và là người nhỏ tuổi nhất trong lịch sử điện ảnh đoạt tượng vàng Oscar.
3. Vận động viên có huy chương Olympic biến thành Chúa tể rừng xanh
Johnny Weissmuller là một vận động viên bơi lội Mỹ gốc Hungary. Anh đã hai lần đoạt giải Olympic năm 1924 và 1928. Anh là người đã đóng nhiều phim Tarzan nhất : 12 phim trong khoảng từ 1932 đến 1948. Lần đầu chọn người đóng Tarzan anh phải so tài với Clark Gable. Nhờ có cơ bắp vượt trội và tài bơi lội (khen phò mã tốt áo) giỏi hơn nên anh đã được chọn để đóng vai Chúa tể rừng xanh cùng vợ là Jane (Maureen O’Hara đóng) và có bạn là chú khỉ hắc tinh tinh Cheetah rất tinh khôn. Trên phim ta thường thấy khỉ Cheetah bóp trộm ống kem đánh răng của Jane mà chén rất ngon lành.
 4. Phim Waterloo Bridge (La valse dans l’ombre, tên Việt ‘Vũ điệu trong bóng mờ’)  và những cơn mưa nước mắt của các thiếu nữ Hà Nội.
Chuyện phim kể lại một cuộc tình bi thảm giữa một sỹ quan (Bob) dòng dõi quý tộc và một cô vũ công(Vivian) tập sự nghèo. Trước khi ra trận Bob có tặng Vivian một con búp bê nhựa làm kỷ niệm. Trong chiến tranh gian khổ Vivian phải bỏ học đi làm ‘gái bán hoa’ đắp đổi qua ngày. Rồi chiến tranh cũng chấm rứt Bob quay lại trường múa xưa tìm Vivian nhưng không gặp. Một ngày kia Bob tình cờ lên cầu Waterloo, là nơi chàng và nàng gặp nhau lần đầu tiên, thì chợt trông thấy người xưa.
Mừng mừng tủi tủi hai người dều cảm động. Bob yêu cầu nối lại mối tình xưa. Nhớ lại quá khứ của mình đã bị làm hoen ố nàng ngần ngừ xin để trả lời sau. Hỏi khi nào sẽ gặp lại nàng hẹn ngày đó giờ đó sẽ lại gặp nhau tại cầu Waterloo này.
Ngày hẹn là một sớm mai trời hơi lạnh ,sương mù còn bảng lảng. Nàng chủ định đi sớm hơn giờ hẹn,  người đi đường còn  thưa thớt trên hành lang cầu, áo mũ che gần kín người.Từng đoàn xe nhà binh bật đèn đi khá nhanh. Bao nhiêu kỷ niệm vui buồn chợt hiên về trong óc nàng, nước mắt từ từ chảy xuống làm mắt nàng có lúc nhòe đi. Nhìn đồng hồ và nàng đã có chủ định. Nàng đi dần ra gần sát mép vỉa hè, nước mắt không ngừng lã chã tuôn roi. Ánh đen ô tô loang loáng chiếu trên mặt nàng. Chợt nàng chạy ra trước mũi một chiếc xe vừa lao tới. Có tiếng va đập  mạnh và nàng bắn tung lên rồi ngã lăn ở giữa đường. Người lái xe bật cửa chay ra đồng thời nhiều người từ các xe khác cũng kéo tới. Vivian thân hình rúm ró bất tỉnh, máu không ngưng tuôn ra từ các vết thương. Xe cứu thương đến Vivian được đưa lên trong tình trạng bất tỉnh máu chảy ướt các vết thương được băng bó  vội vàng.
Khi cánh cửa xe cứu thương đang đóng lại và rồ máy cũng là lúc Bob vừa tới. Xe cứu thương lăn bánh xa dần. Bob đến chỗ xảy ra tai nạn. Chỉ còn một vét thâm đen loang lổ trên mặt đường ở nơi Vivian ngã xuống. Xa hơn một chút chàng chợt nhìn thấy một vật gì đó quen quen. Ra nhặt vật đó lên chàng nhân ra con búp bê nhỏ bằng nhựa mà Bob đã tặng nàng khi mới gặp. Đứng tựa vào thành cầu với con búp bê nhựa trong tay chàng cúi đầu buồn bã. Trong tai chàng giai điệu của bản nhac mà chàng và nàng đã nghe trong lần khiêu vũ cung nhau lần đầu nhè nhẹ vang lên mơ hồ.
(Ghi chú của Mai Thế Trạch. Tôi từng nghe kể khi phim này chiếu ở Hà Nôi những năm 50 có nhiều các bà, các cô xem đi xem lại đến 5-6 lần, lần nào cũng thương cảm khóc hết nước mắt ! Phim làm năm 1940 nên tôi ước ao chú Micro đã được xem)

VĨ THANH
Khi viết bài báo để tưởng niệm và giới thiệu một cây bút có tài, có duyên là Micro của Ngọ báo ( chỉ hoạt động thời gian ngắn cuối năm 20 đến giữa năm 30) tôi gặp rất nhiều khó khăn. Không có tài liệu tra cứu kể cả từ gia đình của ông mà hiên nay tôi không biết ở đâu.
Nhưng tôi biết tờ Ngọ báo có phụ trương xi nê, có bình luận viên hay viết về xi nê dưới bút hiệu Micro, và phụ trương xi nê có chuyên mục Cháo vịt. Không có một số Ngọ báo nào tôi có thể truy cập dù là trên mạng.
Ngoài ra tôi hoàn toàn phải hư cấu. Mong rằng bạn nào muốn nghiên cứu kỹ hơn về Ngọ báo, về biên tâp viên Micro nên tra cứu các tài liệu Lịch sử nghề báo, Ngọ báo tại Thư viện Quốc gia Việt Nam hay TP.HCM.
Nghệ thuật thứ bảy, kỹ thuật điện ảnh ngày nay đã đạt được nhiều thành tích rực rỡ mà cách đây 30-40 năm chúng ta khó hình dung nổi. Chỉ cần Micro sống thêm đến những năm 60-70 của thế kỷ trước chắc chắn ông đã để lại cho chúng ta những tài liệu quý giá cho những người yêu thích hoặc muốn tìm hiểu về Điện ảnh.
  Đăng bởi Mai Thế Trạch tháng 12/2015
Vua hề Charlot
Từ trên xuống Chico, Harpo, Groucho và Gummo
Anh gầy Laurel & anh mập Hardy
Tarzan (1934)

Bài liên quan :
-     Tội trạng cô Vũ thị Cúc ( Ngô Tất Tố - Tạp văn)
-     Tội trạng bà chúa Hàng Trống  ( Ngô Tất Tố - Tạp văn)
-     Báo Vịt Đực số 22, 23/tháng
-      11/193http://chuyencuachi.blogspot.com/2013/04/bai-bao-ve-phien-toa-xu-vu-giet-nguoi.html
-     http://baochi.nlv.gov.vn/baochi?a=d&d=WKrB19381123
và sưu tầm trên Internet, Wikipedia (Anh, Pháp, Việt).






 
         


Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2015

Cho tôi sống lại một ngày



Mùa Thu Paris, tháng 7 còn nắng vàng sôn sao như biển.
Mùa Thu Bắc Việt Nam tháng 8 nắng cũng vàng
nhưng dịu hơn và gió đã  se se lạnh...


Trần Ngọc Kim (Paris 195…) nhớ lại


Cho tôi sống lại một ngày
Nắng vàng làm biển bụi trắng dâng triều
Tiếng hát muôn vàn con người nô lệ
Tưng bừng vang trong không gian 
Trên hè đường, 
 Ngoài góc phố
Nơi quán chợ
Dưới máy nước,
Chân cột đèn, 
Nơi xưởng thợ
Cung điện Louis XVI
 Ngục Bastille, 
Cả Paris 
Và cả miền xa xôi đồng ruộng 

Tiếng hát tự do 
Tiếng hát đấu tranh
Tiếng hát xây nhân loại …
Đã phá tan một địa ngục (1)
Đã lật đổ một hoàng thành
Đã xô ngã một ngai vàng quân chủ (2)
Cứu con người khỏi vũng máu hôi tanh 
Ý Tự do, Bác ái, Công bình (3)
  Được gửi gắm trên ngọn cờ Dân chủ
Chúng tôi chào Cách Mạng

Cho tôi sống lại một ngày
Tôi người đã hát những thu qua :
Đoàn quân Việt Nam đi...
Tôi người ngả nghiêng một thế giới lao tù. 
Thuở ấy 
Cũng như anh
Tôi tuốt gươm đứng dậy
Cũng như Anh, tôi mang hồn Tháng Bảy 
Làm mùa Tháng Tám nơi đây
Cũng như Anh tôi không muốn sống đọa đầy




Không muốn sống ở trong vòng trói buộc,
không muốn sống ở trong vòng nhơ nhuốc
Ngàn năm U tối - Cũng như Anh

Cho tôi sống lại một ngày
Có nắng vàng Paris
Có heo may Hà Nội 
Tiếng hát Tháng Tám vẳng đâu đây
Sao chưa vọng trong lòng người Tháng Bảy
Sao chưa vọng trong lòng tôi chút mấy?
Bàn tay-chờ không thấy một bàn tay !
Cho tôi sống lại một ngày. 

Chú thích Mai Thế Trạch :

  • (1)Địa ngục ở đây ám chỉ nhà ngục Bastille bị lực lượng cách mạng nhân dân Paris đánh chiếm ngày 14 tháng 7 năm 1789. Ngày này sau được coi là ngày quốc khánh nước Cộng Hòa Pháp.

  •  (2) Ngai vàng quân chủ chỉ Vua Louis XVI.

  •  (3)Tự do, Bác ái , Công bình  khẩu hiệu chính thức là Tự do, Bình đẳng , Bác ái   (Liberté, Égalité, Fraternité) bắt nguồn từ Điều 1 Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân năm 1789. 
Bản này đã sửa chữa theo Trần Ngọc Kim  08/12/2015