18.Hỏi : Nguyên nhân của đái tháo đường
típ 1 là
gì ?
Trả lời : Đái tháo
đường típ 1 có nguyên nhân chính là tự
miễn dịch tức là cơ thể sản xuất ra các chất chống lại tế bào của chính
mình gọi là các tự kháng thể (TKT). Trong ĐTĐ có các TKT chống tế bào tuỵ, TKT chống insulin, TKT
chống decarboxylaza của acid glutamic.
Các nguyên
nhân khác là di truyền, chủng tộc (chủng da trắng bị bệnh nhiều hơn các chủng
da màu) ; siêu vi trùng cúm, sởi, coxsackie B4 (gần tương tự với siêu vi trùng
sốt bại liệt).
19.Hỏi : Nguyên nhân của đái tháo đường típ 2 là
gì ?
Trả
lời
: Nguyên nhân đái tháo đường típ 2 có
thể do :
-
Đề kháng insulin là chính, nghĩa là insulin giảm hoặc mất tác dụng sinh học
; kèm theo đó là sự giảm tiết insulin tương đối.
-
Giảm tiết insulin là chính (khối tế bào tiết insulin ở tuỵ giảm 50% hoặc hơn)
có hay không có đề kháng insulin kèm theo.
Di
truyền, chủng tộc
Béo
phì, ít hoạt động thể lực, ăn uống không hợp vệ sinh đều có thể dẫn tới sự đề kháng
insulin và gây ra đái tháo đường típ 2.
20.Hỏi : Đái tháo đường ở phụ nữ có thai do
nguyên nhân gì ?
Trả
lời
: Ở người có thai bánh nhau thai tiết
ra nhiều loại hócmôn để nuôi dưỡng
bào thai làm cho thai phát triển. Nhưng các hócmôn này lại là trở ngại cho tác
dụng insulin ở cơ thể người mẹ tức là đã gây ra một sự đề kháng insulin. Tất cả
phụ nữ có thai đều có một mức độ đề kháng insulin nào đó, nhưng đái tháo đường
ở người có thai (đái tháo đường thai kỳ, ĐTĐTK) chỉ xuất hiện khi có tiềm năng
bị ĐTĐ và bánh nhau thai đủ lớn để tiết ra lượng lớn các hócmôn gây ra tình
trạng đề kháng insulin. Người ta cho rằng thời kỳ đó bắt đầu từ tuần thứ 24 của tuổi thai.
Các nguyên
nhân khác của đái tháo đường thai kỳ là di
truyền, béo phì.
21.Hỏi : Đái tháo đường thai kỳ khác với bệnh
nhân đái tháo đường nữ có thai thế nào ?
Trả lời :
ĐTĐTK là một
thể đái tháo đường đặc biệt xuất hiện lúc mang thai. Sau khi sinh, đái tháo
đường có thể mất đi, tái phát khi có thai lần sau, hoặc trở thành đái tháo
đường vĩnh viễn. Sau khi sinh bác sĩ phải theo dõi sản phụ 6-12 tháng, có khi
phải cho làm một vài xét nghiệm đặc biệt để xác định ĐTĐTK có thể trở thành
vĩnh viễn hay không, và nếu bệnh nhân có ĐTĐ vĩnh viễn thì là ĐTĐ típ 1 hay típ
2.
Trước thời
đại insulin bệnh nhân đái tháo đường có thai là điều hiếm có. Bệnh thường nặng
lên nếu có thai, đặc biệt nếu là đái tháo đường típ 1. Ngày nay do những tiến
bộ trong chăm sóc, điều trị (nhất là từ khi có insulin) bệnh nhân đái tháo
đường có thai là rất bình thường. Một
trong những người được ghép thận đầu tiên trên thế giới là một cô gái sinh đôi
người Pháp bị đái tháo đường típ 1. Cô gái này lớn lên có gia đình và sau đó
sinh con bình thường.
Trong thời
kỳ mang thai cần theo dõi ĐH cẩn thận. Y học đã xác nhận chỉ cần ĐH cao hơn bình thường chút ít cũng đủ để gây ra các tác hại
nghiêm trọng cho bào thai (dị tật, thai chết lưu v…v). Cẩn thận hơn người
ta còn khuyên nên kiểm soát ĐH chặt chẽ (phải đạt mức ĐH gần với bình thường
nhất) để chọn thời điểm nên thụ thai tức là kế
hoạch hoá sinh đẻ đúng nghĩa nhất.
Trong thời
kỳ mang thai nếu cần phải điều trị bằng thuốc thì bắt buộc dùng insulin, dù
trước khi có thai là đái tháo đường típ 2 vẫn dùng thuốc uống có hiệu quả. Điều
trị bằng insulin cũng bắt buộc nếu cho con bú. Các loại thuốc uống làm giảm ĐH
đều đi vào sữa và đều gây tác hại cho đứa trẻ nên không được dùng trong suốt
thời gian cho con bú .
22.Hỏi : Nếu thấy ĐN (+) ở phụ nữ có thai đã chắc
chắn là bị ĐTĐTK chưa ?
Trả
lời : Chưa,
phải có cả ĐH cao nữa. Vì ngưỡng lọc thận (đối với glucose) ở người có thai
thường hạ thấp bắt đầu từ tháng thứ 5 trở đi, nên ĐN có thể (+) dù không có đái
tháo đường.
23.Hỏi : Có thể dự đoán trước ai sẽ bị bệnh đái
tháo đường không ?
Trả
lời : Có
một số yếu tố gọi là yếu tố nguy cơ .
Người có các yếu tố này dễ bị một bệnh nào đó có thể đoán trước được. Khả năng
bị bệnh càng tăng khi càng có nhiều yếu tố nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ của bệnh
đái tháo đường là :
Di truyền :
bố mẹ đẻ, anh chị em ruột, cô cậu dì (chú, bác) ruột đã có ít ra là một người
bị bệnh.
Chủng tộc : người Mỹ không phải gốc da trắng (Mêhicô, da đỏ, châu Phi) ; người Nam Á ; dân cư một số đảo Thái Bình Dương (Fiji, Nauru, Samoa) ; thổ dân châu Úc.
Chủng tộc : người Mỹ không phải gốc da trắng (Mêhicô, da đỏ, châu Phi) ; người Nam Á ; dân cư một số đảo Thái Bình Dương (Fiji, Nauru, Samoa) ; thổ dân châu Úc.
Béo phì
Cao huyết áp
Đái tháo
đường thai kỳ
Đã có lần sinh
con có cân nặng lúc mới sinh từ 4kg trở lên
Tuổi đời
trên 55
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét