Chuyện ông Tư
chết mà vui
Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết ?Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai ? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề.
Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất
mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán
trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền.
Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc
quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa
hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.Ông chọn con đường sau, nên không buồn bã , không
hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở
lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.
Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện
khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi
nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng
không còn làm được nữa.Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng
cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng.
Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn
cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ
đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi
thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin? Về với Chúa là khổ
lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn ?Đáng ra phải cáo phó bằng câu : " Chúng tôi
hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa
gọi về vào ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó khác, cũng "
khóc báo " với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật.
Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi
gì ?Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ,
thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người
Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết,
họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tĩnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm
nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc
chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không
vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm.Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ
chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không
đúng, không phải. Bởi vậy, khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi
ai, mà vẫn không tránh được.
Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên
uống thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm.Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết,
cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông
cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du
thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa
ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc.
Ông vui vẻ,
bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu
nữa.Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp
nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tĩnh, sáng suốt, không
vui vẻ nhưng không bi ai.
Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những
kẻ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy
mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề.
Bởi vậy , nên người đã trải qua cận tử, thì không còn sợ chết nữa, mà đón nhận
như là một ân huệ của trời đất.Về việc đóng tiền cho người khác để mua hòm và mai
tángKêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong
lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh.
Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái
xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi
hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng
gì đâu.Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được
bao nhiêu năm?
Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng
hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu
năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả
thế giới nầy chẳng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao?Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác.
Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo
Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo
Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém.Bạn ông Tư hỏi : - Có phải người theo đạo Chúa
không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại.
Bởi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.Ông Tư cười lớn nói :- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng
đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh?
Có lẽ những kẻ mê tín,
kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt
có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó
được ? Bởi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về
quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất
cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra,
xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả
lăng mộ.Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo
hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây
và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những
phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao
giờ ?Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẳng ai
đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền
quốc tổ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con
cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm
nom.Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt,
chưa làm được gì. Chưa kể những kẻ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp
xác. Bởi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp
xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ
sử dụng.Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông
Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết.
Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử.Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông
Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước
khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì
thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đỡ mệt trước khi thuyền chìm.
Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi
bước vào cổng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẻ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp
với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng
nhạc vui đang rộn rã vẳng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui
vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vã xem kỹ lại số nhà, sợ
đi lầm.Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy
màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết . Bài thơ cũng được chụp phóng lớn,
dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện
trò, cười đùa.Không thấy quan tài ông Tư đâu cả.
Trên bệ thờ có
cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh
có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy
hát. Bài thơ in đậm nét:Khi Tôi ChếtNếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải máiViếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộBiết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .Cũng mất mát, dáng hình , lời thân áiTựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó.Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắtThì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổiVài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quêDẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạnTrong tôi còn tha thiết chút tình mê.Thì cũng C, H, O, N kết lại,Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.Khi đọc xong bài thơ, có người thì mĩm cười, có
người vui hẳn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện
của người chết.
Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc
chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà
cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập
phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ,
bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô
con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói :-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân
thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng
tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục
lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi
xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết
như một sự trở về không tránh được . Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba
chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò
chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng
buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.( Ông Tư đọc bài thơ trên )Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn
ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời,
Kẻ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối
cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ.
Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một
ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn
éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh
phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc
với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuở trung học,
đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông.
Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống
cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng,
sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng.
Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến
trước bàn thờ, và đoán chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông
cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và
đáng được mọi người noi theo.Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng
viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ.
Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng
bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẻ đi
chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo
pháp.
Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi
trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiễn khách.Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bãCười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa.Cuộc đời này chỉ là 1 giấc mơ. Có nhiều người đang
sống, nhưng vẫn còn mơ...Đến khi bịnh hoạn lên giường nằm rồi, mới nhìn lại
được quãng đời mình.Như 1 cuốn phim, quay chậm...Cuộc vui nào rồi cũng tàn, họp mặt nào rồi cũng
chia xa, hạnh phúc nào rồi cũng ly tan.Và con người nào rồi cũng trở thành cát bụi. Đây
là luật Vô Thường - không ai thoát được.Có quan niệm được điều này (không qua nói miệng)
trong mỗi ngày, trong hành động, và từng hơi thở..
Sưu tầm.
Điền Vương
(FB)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét