“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn !”.
Chế Lan Viên
Tôi sinh sống ở nhà số 27 Hàng Ngang
(tên thời Pháp thuộc là rue des Cantonais) từ năm 1935 đến năm1960, từ lúc 5 tuổi cho đến năm 30 tuổi. Sau đó mặc dù
không còn ở Hàng Ngang nhưng tôi vẫn
thường xuyên lui tới phố này để thăm gia đình bà dì tôi có cửa hàng buôn
bán ở số nhà 59. Tính ra tôi đã gắn bó với phố Hàng Ngang ít ra cũng gần 50 năm
trời.
Từ 1985 đến nay gia đình tôi chuyển
hẳn vào ở TP.HCM, những dịp ghé thăm phố xưa chỉ thoáng qua trong chốc lát.
Ngày nay dù năm tháng đã qua đi, biết bao vật đổi sao rời nhưng những kỷ niệm
và ký ức tuổi thơ vẫn sống động không hề phai nhạt trong trí nhớ của tôi.
Nằm ngay giữa trung tâm “khu phố cổ
Hà nội”, trên trục đường nối Chợ Đồng Xuân với hồ Hoàn Kiếm nhưng phố Hàng
Ngang còn chưa được chú ý. Nói đến các phố cổ Hà Nội người ta chỉ chú ý đến
Hàng Đào, Hàng Gai hay “Hàng nảo, Hàng nao” mà hầu như quên mất Hàng Ngang.
Thực ra Hàng Ngang đã có vai trò khá quan trọng về nhiều mặt trong lịch sử cận
đại của Hà Nội, cũng như của cả nước.
VÀI
DÒNG VỀ LỊCH SỬ TÊN PHỐ HÀNG NGANG
Vị trí phố Hàng Ngang ngày nay, xưa
vốn là đất thuộc phường Diên Hưng, một trong 36 phường được đặt tên dưới thời
Hồng Đức như : Diên Hưng[1],
Đồng Lạc, Đồng Xuân, Thái Cực (lúc đầu là Hàng Đào) v…v. Khái niệm Phường lúc
đó bao gồm một khu vực rộng có thể có nhiều làng, chứ không chỉ có ý nghĩa là
đơn vị hành chính như Phường ngày nay. Như vậy phố Hàng Ngang ngày nay, xưa kia
có thể là một làng nằm trong Phường Diên Hưng cổ. Làng này nay vẫn còn dấu tích
đình của làng tại nhà số 3 phố Hàng Ngang nhưng đã được dồn lên gác ba[2].
Thời Pháp thuộc phố Hàng Ngang có tên gọi “rue des Cantonais” nghĩa là phố
“người Quảng Đông”. Ý nghĩa của tên gọi này chắc hẳn có từ đời Lê, vì sau khi
nhà Minh bên Tàu rơi vào tay nhà Thanh nhiều người Trung Quốc phải rời bỏ đất
nước của họ di cư xuống phía Nam, và một bộ phận những người Tàu gọi là “người
Minh hương” đã định cư tại Việt Nam.
Từ đời Lê người Trung quốc được phép
cư ngụ tại Thăng long ; họ tập trung ở một số phố, quây quần theo tỉnh gốc bên
Tàu, phố Hàng Buồm nay vẫn có Hội quán Quảng Đông. Phố Hàng Ngang đa số là
người Hoa kiều gốc tỉnh Quảng Đông , mà tỉnh này có tên cổ là tỉnh Việt, do vậy
các sách địa chí của ta có khi gọi Hàng Ngang là phố Việt Đông. Sách Dư địa chí
do Nguyễn Trãi biên soạn (1380-1442) trong mục Thượng kinh có nói đến phường
Đường nhân (Đường nhân cũng là tên gọi khác chỉ người Tàu . Chú thích Mai Thế Trạch) là khu vực Hàng
Ngang bán áo diệp y (?) [Nguyễn Vinh
Phúc- Tô Hoài. Sách đã dẫn tập 5]. Như vậy phố Hàng Ngang vừa thuộc phường
Diên Hưng vừa thuộc phường Đường Nhân, gọi tên theo cư dân ở phố đó là phố Việt
Đông, phố “người Quảng Đông” cũng có ý nghĩa thực tế. Tại Hội An cũng có một
phố “rue des Cantonais” gọi là Đường Quảng đông, nay là phố Nguyễn Thái Học[3].
Còn
tên gọi phố Hàng Ngang có từ bao giờ ? Tại sao lại gọi là Hàng Ngang ?
Cố đô nước ta về thời
Lý, Lê các phường nằm rải ra trên một đđịa bàn khá rộng, tương ứng với khu nội
thành các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình, Tây Hồ, Hai Bà Trưng và Đống Đa. Thời Lý có
61 phường không có phường nào mang tên “Hàng”. Thời Lê còn 36 phường trong đó chỉ có một phường mang tên Hàng Đào, nhưng đến triều Hồng Đức đổi
là phường Thái Cực, từ đó không còn phường nào có tên bằng chữ “Hàng” nữa [Nguyễn Trương
Quý. Bài báo đã dẫn]. Các tên phố có
tên Hàng đi kèm với một loại hàng hoá thường được mua bán trao đổi ở phố ấy như
Hàng Bạc, Hàng Đường v…v chỉ có thể hình thành khi nền giao thương đã khá phát
triển, đã có sự chia khu vực buôn bán riêng biệt cho từng loại hàng như nhận
xét của một du khách nước ngoài thời đó như sau : “Trong thành phố
này, mỗi thứ hàng chỉ bán tại một dãy phố quy đđịnh riêng mà người ta đã đặt
tên, y hệt kiểu các công ty hay hợp tác xã ở các thành phố châu Âu. [Nguyễn Trương Quý. Bài đã dẫn trích theo “A Description of the Kingdom of Tonqueen” tạm dịch là “Tả
cảnh Vương quốc Đông kinh” của Samuel Baron, 1658].
Còn tên gọi phố Hàng
Ngang thì cho đến nay vẫn chưa có một giải thích nào thoả đáng. Trong tập
"Nhớ và ghi" của Nguyễn Công Hoan thì “do phố này nguyên có tên là
phố Quảng Đông (do bang hội người Hoa xuất xứ từ tỉnh Quảng Đông bên Trung Quốc
định cư từ thế kỷ 19 [thực ra từ thế kỷ
15 ; ghi chú Mai Thế Trạch] nên chính
quyền bảo hộ Pháp đặt như vậy), nhưng do 2 đđầu phố, đđoạn nối với Hàng Ngang
[Đào ?] và Hàng Đường có 2 chiếc cổng chắn ngang, một hình thức phân chia
phường thợ hồi đó, nên dân ta gọi là Hàng Ngang[4]. Ta có thể nhìn thấy ảnh và
tranh vẽ chiếc cổng ở phố Hàng Ngang này do người Pháp thực hiện” [Nguyễn Trương
Quý. Bài đã dẫn, chú thích 1] . Các cổng đó ban ngày mở , ban tối đóng lại cho
kín mãi về sau mới phá những cổng ấy đi [Vũ
Ngọc Phan[5]. Sách đã dẫn, trang 67]. Tô Hoài-Nguyễn Vinh Phúc không tin cách giải thích ấy “ vì
phường nào mà chẳng có cổng. Và cổng nào mà chẳng xây ngang đường” và đưa ra
một thuyết khác “ngang là trái nghĩa với chính thống : như rượu ngang là rượu
không chính thống, rượu lậu ; thợ tay ngang là thợ nghiệp dư, không chuyên; phố
này người Tàu có bán nhiều mặt hàng chứ không chuyên một mặt hàng nào và nhiều
khi không khai báo để lậu thuế nên gọi là Hàng Ngang. Cách giải thích này cũng
chưa có cơ sở chắc chắn nên cái tên Hàng Ngang vẫn là một tồn nghi”
(lời của Tô Hoài-Nguyễn Vinh Phúc).
Tóm lại chúng ta có thể nhất trí về
vị trí của phố Hàng Ngang ngày nay xưa kia là đất của 2 phường Diên Hưng và
Đường nhân. Còn tại sao lại có tên là phố Hàng Ngang thì chưa rõ. Vấn đề này
xin nhường lại cho các nhà Hà-Nội-học giải đáp sau này. Tôi cũng như các bậc
cao niên, các bạn cùng thời đã từng sinh sống ở Hàng Ngang, hay “rue des
Cantonais” theo cách gọi của Toà Đốc lý, “Quảng Đông nhai” theo cách gọi của
người Hoa, chúng tôi đều yêu quý những kỷ niệm khó quên của phố Hàng Ngang một
thủa.
KIẾN
TRÚC PHỐ HÀNG NGANG
Phố này dài 152m đầu phố nối với
Hàng Đường cuối phố nối với Hàng Đào. Đoạn đầu phố còn có tên là Hàng Lam [Nguyễn Vinh Phúc- Tô Hoài.Sách đã dẫn,
tập 3 trang 14-16], nhưng “đoạn đầu” là từ đâu đến đâu không sách nào nói rõ.
Lòng đường rộng khoảng 6-8m ở giữa có đường tàu điện, 2 làn đường còn lại vì
thế khá hẹp ; khi có tàu điện đi ngang thì xe ôtô lưu thông rất khó khăn. Tuy
vậy hai bên phố vẫn có vỉa hè khá rộng cho người đi bộ thoải mái. Tuyệt đối
không được “vô tư” lấn chiếm vỉa hè như ngày nay. Mọi hành vi xâm phạm vỉa hè
đều bị “cẩm” [đội xếp] phạt rất nặng.
Phố có 2 dãy bên phải số chẵn và bên
trái số lẻ theo chiều từ chợ Đồng Xuân xuôi xuống Hồ Hoàn Kiếm. Mỗi dãy có
khoảng 50 số nhà. Bên dãy lẻ trước kia có đến số 61 hay 63, nhưng trong chiến
tranh chống Mỹ tôi không nhớ vì lý do gì mấy nhà cuối dãy lẻ bị phá đi để xây
hầm tránh bom, nên nhà 59 là cuối dãy lẻ rồi. Sau ngày hoà bình hầm trú ẩn được
dỡ đi, thay vào đó người ta xây một Quỹ Tiết kiệm. Dãy chẵn có từ số 2 đến số
62 hay 64. Hiệu Bảo Thành cuối dãy chẵn ăn sang phố Hàng Dép lại mang số 92,
không biết là đánh số theo Hàng Ngang hay Hàng Dép ?
Nhà cửa những năm 30-40 của thế kỷ
trước thường là kiểu nhà ống hẹp và sâu, trung bình mặt tiền rộng 4-6m, nhưng
cũng có nhà hẹp chỉ hơn 2m như nhà số 9, hay 21 (hiệu Tam Hoà). Tuyệt đại đa số
là nhà 1 tầng hay 2 tầng sàn gỗ lợp ngói, có bao lơn nhỏ và có mái che trước
cửa bằng tôn hay gỗ mỏng. Nhà bê-tông đúc rất hiếm. Tôi còn nhớ nhà 48 của ông
Trịnh văn Bô là căn nhà 4 tầng bê-tông đúc, đây là ngôi nhà cao tầng đầu tiên
của phố tôi. Khi máy bay Nhật ném bom Hà Nội [chợ Hàng Da], Gia Lâm, hay bất cứ
khi nào có báo động phòng không bọn trẻ con chúng tôi thường trốn lên tầng 4
nấp trong các mái nhà để nhìn máy bay và những cụm khói do súng phòng không của
lính Pháp bắn lên. Đứng trên tầm cao nhà 48 Hàng Ngang lúc đó có thể nhìn sang
được tới Gia Lâm, một sự nghịch ngợm thú vị nhưng dại dột mà bọn trẻ con khác
không được làm như chúng tôi lại tha hồ ghen tức.
Một số căn nhà lại rất sâu thông
sang tận Hàng Buồm, hay Hàng Cân (điển hình là nhà số 48 thông sang 35 Hàng
Cân, một ưu thế để các cán bộ Cách mạng chọn làm cơ sở hoạt động sau này). Các
nhà đều phải treo màn cửa bằng vải dày móc lên phần mái gỗ hay xây gạch chìa ra
tới bờ hè để che nắng dọi vào nhà buổi sáng, và nhất là buổi chiều đối với dãy
số lẻ vì là hướng Tây. Màn cửa nào cũng có ghi tên hiệu, số nhà, loại hàng bán
để quảng cáo. Vào quãng 4 giờ chiều khi nắng đã dịu, về mùa Hạ các nhà dãy lẻ
đều phải dội nước trên vỉa hè trước nhà cho mát. Cửa ra vào các nhà đa số làm
bằng gỗ gồm nhiều tấm rời, khi đóng có thể ghép lại cho khít; có khi người ta
khoét một ô tròn trên cánh cửa để quan sát trước khi mở cửa. Ban ngày các tấm
cánh cửa được tháo rời và mang dựng vào trong nhà để lấy chỗ buôn bán. Việc
treo màn cửa vừa dài vừa nặng, và nhất là việc mở cửa đóng cửa buổi sáng và
buổi tối là một công việc nặng nhọc cần nhiều sức lực. Cửa sắt kéo ra đóng vào
rất hiếm có thời đó, cả phố may ra chỉ 2-3 nhà có. Phố không có một cây xanh
nào mà chỉ có 4 “cây cột điện” ở 2 đầu phố 2 bên chỗ liền với hàng Đường và
Hàng Đào. Một thú vui của trẻ con trong phố là leo trèo trong lòng khung cột
điện, là loại cột hay dùng lúc đó khác với cột chỉ có một dóng như ngày nay,
thay cho trò trèo cây. Hoặc cũng có thể áp tai vào các dóng sắt cột điện nghe
tiếng rít của bánh xe trên đường “rầy” để đoán xem tàu điện, cũng gọi là xe
điện, sắp tới chưa đi lên hay xuống. Đường xe điện Bờ Hồ-Bưởi lúc đó chạy qua
Hàng Ngang và đỗ ở đầu phố. Tàu chạy khá đúng giờ, sáng sớm quãng 5 giờ từng
đoàn tàu từ Sở xe điện ở Thuỵ Khuê xuống Bờ Hồ, buổi tối quãng 9 giờ các tàu
lại “dồn toa” về Sở đi theo hướng ngược lại. Vào những thời điểm đó tàu đi khá
nhanh vì đường còn vắng và ít khách lên xuống. Dân phố có thể căn cứ vào thời
gian dồn toa đó để đoán chừng giờ giấc. Tàu điện chạy khua chuông leng keng là
một nét rất riêng của Hà Nội, nó ăn sâu vào tâm khảm người Hà Nội cũ. Tôi được
nghe kể là trong một lần tiếp Đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch ; ông Hoàng thân
Hăng-ri Đờ Mông-pơ-za, phu quân của Nữ Hoàng Đan Mạch, người đã sống suốt thời
thơ ấu ở Hà Nội nói tiếng Việt rất sõi đã hỏi ông Đại sứ Việt Nam rằng “Thế bây
giờ phố Hàng Ngang có còn tàu điện chạy leng keng nữa không ?”. Tàu điện không
chỉ là một phương tiện giao thông tiện lợi, rẻ tiền, mà còn là kỷ niệm đáng nhớ
của người Hà Nội cũ, hay ngay cả với người xa lạ đã từng sống ở Hà Nội như vị Hoàng thân sống tận mãi trời Âu kia; nó
còn có thể làm một điểm du lịch hấp dẫn. Ngày nay ở một số thành phố lớn trên
thế giới người ta vẫn còn bảo tồn tàu điện dù chỉ để phục vụ cho du lịch như
San Francisco. Thật đáng tiếc cho Hà Nội !
Hạ tầng cơ sở thời đđó rất kém. Tôi
còn nhớ dân trong phố lúc đó khổ sở nhất về hai khoản nhà vệ sinh và hệ thống
thoát nước. Nhà vệ sinh, thực ra chỉ là nơi để đại tiểu tiện gọi cho sang chứ
chẳng vệ sinh tý nào, tất nhiên là dùng hệ thống thùng tôn để chứa phân. Cứ 2-3
ngày công nhân [lúc đó gọi là “phu”] nhà thầu Năm Diệm [tên ông chủ thầu] lại
tới để thay thùng cũ đã đầy bằng thùng khác. Phiền một nỗi việc thay thùng
thường phải làm vào khoảng từ 10 giờ tối trở đi, có khi đến 1-2 giờ đêm mới
xong. Nhà nào đi ngủ sớm, nhất là về mùa Đông, sẽ bị lôi bật dậy khỏi chăn ấm
vì tiếng đập cửa thình thình cùng với tiếng gọi gấp gáp “đổi thùng nhé!!!”. Mỗi
khi đổi thùng thì nhà nào cũng phải thắp một bó hương cắm từ ngoài cửa vào đến
nhà vệ sinh để tiễn chút “hương thừa đâu đây”. Chưa kể cái khổ là nhỡ thùng đầy
quá, hoặc khi người công nhân vô ý , hay cố ý vì bực mình với chủ nhà, rải một
ít “mìn” trên đường lúc ra về thì nhà chủ lại phải ra công mà quét dọn lúc đêm
đã khuya. Hệ thống thoát nước thải cũng là nỗi lo thường trực của dân phố vì
luôn luôn bị tắc. Vì thế ngoài phố luôn luôn có những người thợ qua lại rao
“cống ơ !” để chờ người thuê thông cống. Khi trời mưa to thì hầu như nhà nào
cũng phải trang bị một cây sào dài để thông cống từ trong nhà chảy ra rãnh vỉa
hè do nước thoát không kịp. Tôi còn nhớ nhà tôi là một trong những nhà bị ngập
nặng nhất, khi mưa to nước ngập tới gần đầu gối người lớn. Những lúc đó thường
phải mướn những người gánh nước thuê đến múc nước ngập gánh đi đổ tận ngoài phố
bờ sông. Chỉ mãi đến khi nhà tôi thiết kế được một hệ thống cống dẫn nước thải
đặc biệt cao tới gần 1m so với nền nhà mới hết cảnh ngập nước mưa. Không ngờ
thời buổi 2003 này lại tái diễn cảnh ngập nước trong nhà của 60-70 năm về trước
!
NGƯỜI
HÀNG NGANG VÀ SỰ BUÔN BÁN Ở PHỐ HÀNG NGANG
Cũng như Hàng Buồm, Mã Mây, ngõ Sầm
Công người dân phố Hàng Ngang đa số là người Hoa, chắc là gốc từ Quảng Đông như
tên phố do người Pháp đặt. Lúc còn nhỏ tôi còn được thấy vài người đàn bà Tàu
già bó chân đi những đôi giày bé tí như giày trẻ con 3-4 tuổi. Vì người thì lớn
mà chân bé quá nên dáng đi lật đật rất dễ ngã, nom thực đáng thương. Người Việt
cũng đông nhưng kém người Hoa, còn lại là 1-2 nhà người An độ. Vào những năm
30-40 thế kỷ 20 những người con cháu dòng họ Phan, gốc Hoa, rất đông đúc như
các hiệu Phan Vạn Thành, Phan Thái Thành, Phan Hoà Thành v…v. Tôi còn nhớ nhà
số 26 trên sát nóc còn đắp mấy chữ Hán “Phan Thái Thành” [hay Phan Vạn Thành],
nhà số 22-24 cũng thuộc dòng họ Phan nhưng luôn luôn đóng cửa. Còn hiệu Phan
Hoà Thành thì nhà số 34. Cụ bà Trịnh Phúc Lợi và em trai là cụ Cự Hưng [trong
gia đình gọi là cụ Cả] nếu tôi không lầm hình như cũng là con cháu họ Phan (?)
đã Việt hoá. Dân số trong phố lúc đó không đông, dù là Hoa, Việt hay An, dù
không thân thiết nhưng nhà nào cũng quen biết nhau; mọi người chung sống hoà
thuận không hề xảy ra cãi vã to tiếng.
Phố Hàng Ngang buôn bán mấy mặt hàng
chính là vải, lụa; trà Tầu ; hiệu thuốc Đông y. Ngoài ra có một số ít hiệu đồng
hồ, tạp hoá. Các hiệu vải tơ lụa : bên số lẻ thì có Trịnh Phúc Lợi số 7, Phát
Đạt số 13, Phúc Đồng số 19 sau chuyển sang 18 [nay trên sát mái nhà vẫn còn
thấy đề chữ Phúc Đồng], Lợi Quyền số 27, Cự Hưng số 47; số chẵn có Tùng Hiên số
8 [trước ở Hàng Đường] , Kim Long số 12, Phúc Trạch số 16 [trước ở Hàng Đào
?], ông Sàm số 20 , Đông Quân Hưng
[trước ở Nam Định] số 26 sau chuyển sang 17, và một tiệm nhỏ do chủ người An độ
số 40 hay 42 (?). Phố Hàng Đào bán vải, tơ lụa nhưng chủ yếu là bán lẻ. Còn Phố
Hàng Ngang bán buôn [bán sỉ] là chính đi khắp Trung, Nam, Bắc, Ai Lao, Cao mên.
Nhưng sở dĩ người ta nhắc nhiều đến Hàng Đào có lẽ vì có mấy tiệm người An
chuyên bán tơ lụa cao cấp [gọi là hàng Bombay] mà các bà các cô ưa thích. Hàng
Ngang còn nổi tiếng nhờ trà Tầu của người Hoa. Theo như tôi còn nhớ thì không
có phố nào ở Hà Nội lúc đó nhiều hiệu bán trà tàu như thế. Đó là các hiệu Chính
Thái, Ninh Thái, Sinh Thái [nhãn hiệu “Chiếc ôtô”], và mãi sau này mới có hiệu
Đồng Lương [Phú Xuân] của người Việt. Những hiệu Hoa kiều còn bán các loại chè
Ô long, Liên tâm và thứ nhất là chè đầu xuân, đựng trong những bao chè bằng kẽm
hoặc đóng gói để trong thùng gỗ (Vũ ngọc
Phan Sách đã dẫn, trang 37) ; ngoài ra còn có các loại trà danh tiếng như
Long tỉnh, Thiết Quan Am. Nổi tiếng nhất là hiệu trà Chính Thái 25 Hàng Ngang,
sát cạnh nhà tôi, một phần vì trà ngon nhưng có lẽ cũng vì còn có chiếc “gương
biến hình”, lúc đó là của hiếm để ngay trước cửa ; người qua lại nhìn vào trong
gương sẽ thấy người mình bị biến thành cao hay lùn, béo hay gầy tuỳ theo vị trí
từ chỗ mình đứng tới gương, nhờ vậy mà người ta nhớ nhiều tới hiệu Chính Thái.
Chiếc gương này nhà văn Tô Hoài đã từng nói đến trong một tập sách của mình. Ngoài
“chiêu” quảng cáo này trà Chính Thái còn khuyến mãi bằng các tranh màu nhỏ bằng
bao diêm có in hình các nhân vật trong các truyện cổ của Tàu như Tam Quốc,
Chinh Đông, Chinh Tây v…v để trong bao trà làm trẻ em rất say mê mong có được
đủ bộ sưu tập Lưu,Quan, Trương, Tiết Đinh Sơn, Phàn Lê Hoa v…v.
Các hiệu Đông dược đều của người Hoa
như Cộng Hoà số 15, Nhị Thiên Đường số
23 [nhãn hiệu Ông Phật mập] sau chuyển sang Hàng Buồm, Đại Quang số 29 [nhãn
hiệu Con Bướm] sau chuyển đi Sài gòn, Chí Hưng thế chỗ Đại Quang, Bảo Bình An
số 41 hay 43 (?). Hiệu Bảo Bình An luôn luôn có một cụ Lương Y người Hoa rất
đạo mạo ngồi bắt mạch kê đơn, sau đó những người phụ việc bốc thuốc cho những
vị thuốc cần phải tán nhỏ vào những cái cối đồng để giã nhỏ làm vang lên những
tiếng loong coong rất vui tai. Sau khi gói rất nhanh thành những thang thuốc
gọn đẹp thế nào khách mua thuốc cũng được khuyến mãi một gói nho khô, hoặc một
gói ruốc bông con con. Đông dược do người Việt bán thì tôi chỉ biết có trường
hợp cụ Cự Hưng, nhưng cụ chỉ bốc thuốc cho người quen và con cháu trong họ là
chính. Còn một trường hợp khác, nếu tôi không lầm, là hiệu thuốc Võ Đình Dần
hình như ở nhà số 13 một thời gian ngắn, chuyên về các thuốc chữa bệnh “phong
tình” sau chuyển đi đâu không rõ. Đến khoảng năm 50 có thêm hiệu thuốc Tây của ông Chương Văn Vĩnh số 8
(?) là một hiệu thuốc lớn có nhận cả sinh viên Đại học Dược khoa đến thực tập.
Hàng Ngang chỉ có vài hiệu nhỏ bán
đồng hồ mà cái hấp dẫn duy nhất là trong tủ kính bày tượng một chú chim chân
cao lông xanh cứ vài phút lại cúi xuống nhúng hẳn cái đầu vào một cái ly thuỷ
tinh đầy nước trong đó có để một cái đồng hồ. Chắc là để khoe đồng hồ không
ngấm nước ! Chả bù với bây giờ Hàng Ngang, Hàng Đào có biết bao nhiêu cửa hàng
đồng hồ lớn. Nhà số 27 ngày xưa chỉ có mình hiệu vải Lợi Quyền, nay đưọc thay
thế tới 3 tiệm đồng hồ.
Hiệu tạp hoá, bây giờ gọi là bách
hoá, thì có hiệu số 9 hay 11, Chi Lan số 37 hay 39, Quảng Xương hay Quảng Hưng
(?)số 32. Các hiệu xuất nhập khẩu, lúc
đó chưa có công ty, cũng đã có mặt ở Hàng Ngang ngay từ thời đó với Tak
Yune [Đức Nguyên] số 17 và Chí Xương số
28. Tak Yune buôn bán đủ mặt hàng vải, sợi, đường v…v. Còn Chí Xương tôi chỉ
nhớ ông bà chủ hiệu là người Hoa, còn trẻ và phong cách rất lịch sự và có dáng trí
thức, không hiểu xuất nhập khẩu hàng gì ?
Trước những năm 30 phố Hàng Ngang về
Tết các hiệu Hoa kiều có bán các chậu hoa mẫu đơn có đề chữ mẫu đơn Hàng Châu,
mẫu đơn đệ nhất hạng trên giấy đỏ (Vũ
Ngọc Phan. Sách đã dẫn).
Suýt nữa tôi quên mất vài cửa hiệu
hơi lạc lõng vì hình như vị trí của chúng không phải ở đấy!? Đó là hiệu bán
pháo tôi không nhớ tên, ở số 2, lý ra phải ở Hàng Bồ hay Hàng Buồm ; hiệu vàng
Tiến Đạt số 57 lại lạc từ Hàng Bạc sang đây, tuy nhiên cũng có lý do vì ông bà
chủ hiệu này vốn là con cháu cụ Tiến Mỹ là một tiệm vàng có tiếng ở Hàng Bạc,
và hiệu Tùng Hiên lúc đầu bán bánh kẹo, đáng ra phải ở Hàng Đường mới đúng.
Cư dân phố Hàng Ngang cũ thường định
cư đã lâu đời và rất gắn bó với Hàng Ngang. Nghe nói hậu duệ của Cụ Nguyễn
Quang Oánh [1888-1946] hiện nay vẫn còn sinh sống ở trên gác nhà số 1. Cụ Oánh
là nhà giáo dục học cự phách trước đây, là anh ruột cụ Ôn như Nguyễn văn Ngọc
[tác giả Cổ Học Tinh Hoa] và là thân phụ BS. Thần kinh học nổi tiếng Nguyễn
Quốc Anh. Cháu nội cụ Trịnh Phúc Lợi số 7, con cháu cụ Phát đạt số 13, con cháu
cụ Cự Hưng số 47, con cháu cụ Hàn Sóc cụ Tùng Hiên số 8, gia đình cụ Tú Đông
thân sinh ông Phan Hiền, tên thật là Lê Thuý Lan cựu Thứ trưởng ngoại giao [nhà
số chẵn], đều vẫn còn ở lại trong các nhà đó nhưng phải chấp nhận một diện tích
rất “khiêm tốn” do thời thế. Lại cũng có những ngôi nhà do công việc buôn bán
nên đã thay đổi chủ nhiều lần. Như nhà số 26, lúc đầu là nhà con cháu cụ Phan
Vạn Thành, tiếp sau đó là một hiệu của người Ấn, rồi đến gia đình cụ Đông Quân
Hưng, chủ cuối cùng tôi không rõ là ai (?) ; nhà số 23 là hiệu thuốc Nhị Thiên
Đường nổi tiếng với “ve dầu” hiệu Ông Phật mập, đến khoảng năm 1942 thì có hiệu
bán kem que rất lạ lúc bấy giờ với dân ta và cũng rất ngon do chủ người Nhật
dọn đến và đây có lẽ cũng là hiệu kem que đầu tiên ở Hà Nội, sau cùng là hãng
dệt Cự Chung. Trường hợp nhà số 30 tôi không còn nhớ bán hàng gì , cụ chủ nhà
thường gọi là cụ Sáu hình như có họ hàng với cụ Lương văn Can [một trong những
nhà lãnh đạo Đông Kinh Nghĩa Thục]. Cụ Sáu có 2 con trai, người con lớn là ông
Tuân hay đi chiếc xe đạp “cuốc” còn người em là tay vỹ cầm nổi tiếng Lương Ngọc
Châu, 1 con gái là bà Nghĩa, sau này là Giảng viên Khoa Pianô Trường Nhạc Hà
Nội; bà Nghĩa là người con gái đầu tiên bấm lên những tiếng thánh thót của cây
đàn pianô quý phái nhưng đáng tiếc lại ở một phố buôn bán ồn ào ầm ỹ như phố
Hàng Ngang.
QUẢNG
CÁO TẠI PHỐ HÀNG NGANG
Buôn bán dĩ nhiên phải gắn liền với
quảng cáo. Trong khi Hàng Đào có những biển quảng cáo mang đầy những biểu tượng
các con vật như Thạch Lam đã viết rất
sinh động trong “Hà Nội 36 phố phường”, thì Hàng Ngang lại hay quảng cáo bằng
loa phóng thanh mở âm lượng hết cỡ như các hiệu thuốc Đông y Đại Quang, Nhị
Thiên Đường v…v. Các truyện cổ Trung Hoa như
Tam Quốc, Chinh Đông Chinh Tây, truyện trinh thám được in thành những
tập khổ nhỏ, ra nhiều kỳ phát không hoặc tặng khách mua hàng cũng rất được hoan
nghênh. Đến khoảng những năm 40 ở Hàng Ngang còn xuất hiện những người đeo một
cái khung chữ nhật bằng sắt cao quá đầu chừng 1m có dây lưng da thắt ngang
bụng, trên cái khung đó có bảng quảng cáo. Những người mang bảng quảng cáo đó
đầu tiên chỉ thấy trong các phim xinê và được gọi là những “sandwich men” tạm
dịch là “người kiểu bánh săng-uých” [bánh mì kẹp thịt]. Kiểu quảng cáo đó không
chỉ riêng cho Hàng Ngang mà có lẽ chung cho cả Hà Nội nhưng vì Hàng Ngang, Hàng
Đào là nơi đông người qua lại nên dễ gây sự chú ý. Ngày nay với những áo phông
mang đủ các loại quảng cáo thì thật tiện lợi, nhẹ nhàng. Ta thử hình dung những
“sandwich men” xưa kia phải đeo trên người cái bảng quảng cáo to nặng như thế
mà gặp khi mưa to gió lớn thì vất vả biết chừng nào !
Nhưng có những trường hợp đặc biệt,
dù là vô tình, mà quảng cáo lại không tốn một đồng xu nhỏ. Đó là trường hợp
hiệu vải số 20 của một ông chủ người An tôi không rõ tên là gì, nhưng vì ông có
một bộ râu quai nón rất rậm nên có biệt danh là ông Sàm [từ Sồm nói trại đi].
Ông cũng không lấy làm phiền lòng vì điều đó lại còn lấy luôn biệt danh đó làm
tên hiệu và cho kẻ chữ “Hiệu Ông Sàm 20 Hàng Ngang” trước cửa và màn cửa. Phải
công nhận thương gia này rất thông minh vì cái tên Ông Sàm dễ nhớ hơn nhiều so
với tên Ấn Abdullah hay Ibrahim gì đó của ông. Một trường hợp khác là hiệu “
Tak Yune” [Đức Nguyên] ở số 17. Hiệu này có một ông quản lý vóc người rất to
béo cỡ trên dưới 100kg, lúc đó còn nhỏ nên tôi cũng không biết tên thật của
ông, chỉ thấy người ta đặt biệt danh cho ông là ông Tài “béo” và người ta chỉ
nhớ hiệu ông Tài “béo” chứ ít khi nhớ tên hiệu là Đức Nguyên. Tôi phải nói ngay
là tôi rất quý trọng các ông đó vì các ông đều là bạn với bố mẹ tôi và lại rất
yêu quý trẻ con. Nhắc tới các ông chỉ vì đó là một nét rất dễ nhớ của Hàng
Ngang ngày đó mà thôi.
LỊCH
SỬ NHÀ HỌ TRỊNH HÀNG NGANG
Ngoài họ Phan người Hoa tôi xin được
nhắc tới dòng họ Trịnh cũng là một danh gia vọng tộc ở Hàng Ngang. Khi tôi đến
Hàng Ngang ở thì tại nhà số 7 có hiệu Phúc Lợi mà chủ nhân người họ Trịnh, vì
thế dân trong phố quen gọi là Cụ Trịnh Phúc Lợi. Chủ trì việc buôn bán do cụ bà
và các con, nên người ta chỉ biết đến cụ bà nhiều hơn. Cụ ông lúc đó đã cao
tuổi không tham gia công việc giao thương. Họ Trịnh xuất xứ tại Đồng Hoàng,
huyện Thanh Oai (Hà Tây). Cụ Trịnh Phúc Lợi có 1 bà con gái, và 2 ông con trai
đều là những người nổi tiếng sau này.
Con trai cả là ông Trịnh văn Bính
sớm được du học tại Pháp. Ông là một trong những người Việt Nam đầu tiên và
hiếm hoi thi đậu vào Trường Cao Đẳng Thương Mại Pháp quốc (Hautes Études
Commerciales gọi tắt là HEC), một trường đại học thi vào rất khó vì phải có bằng
tú tài toàn phần và học dự bị thêm 2 năm, rồi lại phải qua một kỳ thi tuyển mà
số người đậu rất ít. Sau khi về nước ông được bổ nhiệm Phó giám đốc Hải quan Hà
Nội, lúc đó gọi là “Nhà Đoan” [Services des Douanes]. Vì thế trong họ cứ gọi
ông là ông Cử [Cử nhân], mặc dù học vị tốt nghiệp HEC phải cao hơn mức cử nhân
nhiều, hay ông Phó [phó Đoan]. Khi Cách mạng tháng 8 thành công, ông tham gia
phái đoàn Phạm văn Đồng đi dự hội nghị Fontainebleau đàm phán với chính phủ
Pháp. Trong kháng chiến chống Pháp rồi đến sau tiếp quản Thủ đô ông đảm nhiệm
chức vụ Thứ trưởng Bộ Tài chính cho đến khi nghỉ hưu. Ông là một cán bộ cao cấp
mà đức thanh liêm rất đáng nêu gương học tập cho tầng lớp cán bộ bây giờ. Tuy
được tiêu chuẩn có xe ôtô riêng đưa đón, nhưng ông chỉ dùng ôtô vào việc công ;
còn lúc đi thăm bà con họ hàng ông chỉ đi chiếc xe đạp cũ không lấy gì làm tốt
lắm. Ông lấy toàn tên các chúa Trịnh để đặt tên cho các con trai như Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Giang, Trịnh
Sâm v…v, tên đúng như các chúa Trịnh xưa không có chữ đệm “văn”!. Có người cho
đó là một cách chơi ngông ; nhưng theo tôi nghĩ thì đó lại là cách rất riêng
của ông để thể hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc từ trước CMT8. Người con
thứ cụ Trịnh Phúc Lợi là ông Trịnh văn Bô. Cả hai ông bà Trịnh văn Bô sớm được
giác ngộ cách mạng nên đã có nhiều cống hiến và đóng góp công sức, của cải vật
chất cho cách mạng. Hai ông bà đã là nòng cốt trong việc vận động các nhà tư
sản dân tộc đi theo cách mạng từ thời kỳ Tiền khởi nghĩa cho đến khi Cách Mạng
thành công. Sau ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội 1954 ông đã được bầu làm Phó Chủ
tịch Uỷ Ban Hành Chính thành phố Hà Nội.
Cụ Trịnh Phúc Lợi là một người có
tài kinh doanh, nhân hậu và biết dùng người hay nói như ngày nay “có tầm nhìn
chiến lược”. Ngoài việc cho ông con cả theo học Trường Cao Đẳng Thương Mại Pháp
Quốc cụ còn đào tạo được một loạt các “học trò” sau này đều rất thành công
trong kinh doanh. Đó là các ông Trịnh văn Bô, Nguyễn Đức Mậu (Phát Đạt), Mai Bá
Lân (là cha tôi sau mở hiệu Lợi Quyền), Vương Xuân Toạ (Lợi Hoà ở Sài Gòn sau
này), Trịnh thị Thục (Phúc Đồng,con gái cụ Trịnh Phúc Lợi). Những học trò của
cụ khi ra mở hiệu riêng đều được cụ giúp đỡ ít nhiều về tài chính.
HÀNG
NGANG VỚI LỊCH SỬ CẬN ĐẠI
Là người Hàng Ngang ai mà chẳng biết
ngôi nhà số 48 của ông bà Trịnh văn Bô, từng là niềm kiêu hãnh về mặt kiến trúc
của phố tôi. Nhưng nhà 48 sẽ mãi mãi là một địa điểm đáng ghi nhớ trong lịch sử
không riêng của Hà Nội mà còn của cả nước vì ở đó Bác Hồ và các cán bộ lãnh đạo
cao cấp của Đảng, Nhà Nước đã từng trú chân và làm việc. Ngày nay trên tường
cạnh cửa ra vào ngôi nhà [48 Hàng Ngang] có gắn tấm biển bảng đá trắng nổi bật
lên những dòng chữ vàng “ Trong ngôi nhà này, tại một phòng gác nhỏ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết bản tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà” (Nguyễn Vinh Phúc- Tô Hoài
. Sách đã dẫn trang 65-66 tập 1). Chỉ tiếc là mặt tiền ngôi nhà ngày nay hơi
kém vẻ trang nghiêm do các nhà hàng phố bày hàng hoá quá nhiều cản trở tầm nhìn
của khách tới tham quan di tích lịch sử có một không hai đó. Phố Hàng Ngang còn
nổi tiếng vì đã hưởng ứng “Tuần lễ Vàng” theo lời kêu gọi nhân dân cả nước của
Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 9/1945. Ngày 16/9/1945 khai mạc “Tuần lễ Vàng” ở Hà
Nội. Đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Những nhà tư sản lớn ở Hà Nội
như ông bà Trịnh văn Bô, bà Vương thị Lai…là những người đóng góp nhiều nhất,
từ trăm lạng trở lên (Nguyễn Vinh Phúc-
Tô Hoài . Sách đã dẫn trang 128-129 tập 5). Bà Vương thị Lai tức Lợi Quyền
nhà số 27 [mẹ tôi] là người đóng góp 109 lạng, nhiều nhất trong “Tuần lễ Vàng”
tại Hà Nội do đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng một huy chương bằng
vàng[6] [7].
HÀNG
NGANG PHỐ CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐẸP NGÀY XƯA
Dưới đây xin được thuật lại những
ghi chép của các nhà văn tiền bối đầu thế kỷ 20 ca tụng những người đẹp nức
tiếng một thời của phố Hàng Ngang qua hai cuốn tiểu thuyết bán chạy như tôm
tươi thời đó là “Mồ cô Phượng” và “Tố Tâm”.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan kể …“Năm tôi
mười ba mười bốn tuổi (1915-16), ngày ngày đi học qua phố Hàng Ngang, tôi đã
được trông thấy cô Phượng. Lúc đó, cô vào khoảng hăm hai hăm ba tuổi. Cô ngồi
bán các thứ hàng lụa, xa tanh, gấm, vóc tại nhà chồng, nhà này họ Phan bên số
chẵn… Cô Phượng người tầm thước, có đôi mắt bồ câu long lanh, với cặp mi cong,
đôi lông mày xanh và dài, môi đỏ mọng đầy dục vọng, mũi dọc dừa thanh tú, và
đôi má lúm đồng tiền khi cười. Gò má cô hơi cao, ửng hồng, làm cho khuôn mặt
trái xoan của cô có sức quyến rũ, giống như nữ diễn viên điện ảnh Marlen
Dietrich thời bấy giờ. Cô Phượng ăn mặc rất nền, khi thì chít khăn nhiễu tam
giang, khi thì chít khăn nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô hay mặc yếm hoa
hiên, quần lĩnh tía cạp điều thắt lưng quan lục; tất cả các màu sắc ấy ánh lên
qua chiếc áo dài vải phin trắng, may sát vào thân hình nở nang. Hai con mắt
tình tứ tuyệt đẹp của cô hôm nào cũng liếc lên chuyến xe điện chở đầy học trò
trường Bưởi, làm cho những anh học lớp trên chúng tôi, cứ hễ xe điện chạy đến
phố Hàng Ngang đều hướng cả về số nhà số chẵn. Lối ăn mặc của cô là một lối rất
“nền” của phụ nữ Hà nội thời xưa. Người ta nói : cô là con người tài hoa, yêu
thích văn thơ…Việc cô bỏ chồng và trốn nhà ra đi, ầm ĩ cả Hà nội vì hồi ấy,
thanh niên thủ đô không ai là không biết cô Phượng Hàng Ngang. Nhưng rồi hồng
nhan bạc mệnh, cô đã sớm qua đời ! Người thì nói cô bị trúng phong mà chết,
người thì nói cô chán đời nên đã quyên sinh. Một tiểu thuyết lãng mạn tiêu cực
đã được in có tựa là Mồ cô Phượng [không rõ tên tác giả] bán rất chạy
với các nhân vật chính là cô Phượng và Hoàng Hồ. Phượng tức là cô Phượng Hàng
Ngang này còn Hoàng Hồ là ám chỉ vào Hoàng Tích Chu, một nhà báo nổi tiếng đầu
thế kỷ 20. (Vũ ngọc Phan. Sách đã dẫn
trang 117, 243-244). Ở rạp Sán Nhiên Đài phố Hàng Bạc, vào những năm 20 của thế
kỷ này , có đào Tửu nổi tiếng một thời. Cô đã đẹp hát lại rất hay. Cùng thời
chỉ có cô Phượng Hàng Ngang mới sánh kịp Đào Tửu về nhan sắc (Vũ ngọc Phan. Sách đã dẫn trang 344).
Còn đây là lời kể theo nhà văn Vũ
Bằng[8]
trong chương “Tại sao thiên hạ lại mê truyện Tố Tâm ? Song An Hoàng Ngọc Phách
người của một cuốn sách”. Song An Hoàng
Ngọc Phách là một nhà văn lớp đầu tiên rất nổi tiếng vì cuốn tiểu thuyết kỳ
tình lãng mạn Tố Tâm, tên một cô gái đẹp là nhân vật chính trong chuyện có một
kết cục bi đát bằng cái chết. Nhưng không hiểu vì sao sau Tố Tâm ông không viết
thể loại đó nữa. Vũ Bằng viết ” Nguyên ở Hà nội lúc đó tại số nhà 52 phố Hàng
Ngang có hai chị em kia đẹp nõn nà, đẹp cao quí, đẹp rất ư lịch sự, nổi tiếng là hoa khôi Hà nội…đại đa
số quả quyết là nàng Tố Tâm đau khổ chính là hoa khôi chị. Ông [Song An Hoàng
Ngọc Phách] cũng bị một hình bóng người đẹp cám dỗ….và “người đẹp lý tưởng ấy”
là nguồn gốc cảm hứng để ông sáng tác truyện Tố Tâm. ..người đẹp ấy chính là
hoa khôi ở 52 phố Hàng Ngang [trong truyện ông nói chệch là 58 và không đề tên
phố].
Một phố Hà Nội mà có tới 2 người đẹp từng là
cảm hứng cho 2 cuốn tiểu thuyết đã nổi tiếng một thời thì quả là hiếm có lắm
thay !
Trên đây tôi chỉ ghi lại những kỷ
niệm đã để lại những ấn tượng khó quên về phố Hàng Ngang và những người cùng
phố thân yêu của tôi ngày ấy, như môt tài liệu để người Hàng Ngang bây giờ tham
khảo. Ngày nay phố Hàng Ngang đã đổi khác. Nhà cửa khang trang hơn, các cửa
hàng lịch sự với nhiều hàng hoá mà thời trước trong mơ cũng không thấy, con
người bây giờ cũng năng động hơn. Đó là điều rất đáng mừng. Tôi mong “những
người Hàng Ngang cũ”, từ các bậc cao niên đến những người ít tuổi hơn nhưng vẫn
nặng lòng với Hàng Ngang, vui lòng chỉ dẫn những gì không đúng hay còn thiếu
sót trong bài viết nhỏ này để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa và để “người
Hàng Ngang mới” hình dung đúng đắn về một phố Hàng Ngang những năm tháng đã
quaª
Sửa lần cuối TP. Hồ Chí Minh tháng 10-2014
Sửa lần cuối TP. Hồ Chí Minh tháng 10-2014
Sandwich-men (đeo biển quảng cáo) |
Hiệu Phúc Lợi số 7 Hàng Ngang của cụ thân sinh ô. Trịnh Văn Bô, ô.Bính, bà Phúc Đồng |
[1]
Nguyễn Trương Quý. Hà Nội, di sản
nghìn năm và tốc độ của đời sống hiện đại. Tạp chí điện tử Talawas ngày
23-10-2003
[2] Nguyễn
Vinh Phúc- Tô Hoài. Hỏi đáp 1000 năm THĂNG LONG HÀ NỘI, các tập 1-3-5 NXB
Trẻ năm 2000
[3]
Hoàng Kim Đáng. Hội An nhìn qua lăng
kính nhiếp ảnh. Báo Người Hà Nội mới số 40, 3-10-2003
[4]
Bình Minh. Phố cổ Hà Nội. Báo Hà Nội
điện tử ngày 11-10-2003
[5]
Vũ ngọc Phan “Những năm tháng ấy”
1987
[6] “Kỷ niệm về ngôi sao bằng vàng” báo Hà
Nội mới số ra ngày 1 và 2 tháng 2 năm 1984
[7] “Người phụ nữ đầu tiên được Bác Hồ tặng
huy chương” báo SGGP số 5128 ngày 19-10-1991
[8]
Vũ Bằng. Mười chín chân dung nhà văn
cùng thời. Trang 280-292 NXBĐHQG Hà nội 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét