KỶ NIỆM CỦA MỘT VIỆT
KIỀU TẠI PHÁP (1949-1956)
Kính viếng hương hồn những anh chị em nay đã mất.
Mến tặng các anh chị em còn đang hoạt động
tại Pháp hoặc đã hồi hương
Huy
hiệu của thị trấn Baillet ngay sát Paris
|
1. CỜ ĐỎ SAO VÀNG TRÊN BẦU
TRỜI BAILLET
Tôi còn nhớ mãi lần đầu tiên lại được nhìn thấy
lá cờ đỏ sao vàng thân yêu sau những ngày phải sống o ép trong lòng Hà Nội bị
tạm chiếm năm 1949. Đó là trong một kỳ cắm
trại của đoàn thể Việt kiều tại Baillet, một thị trấn nhỏ xinh xắn vùng phụ cận
Paris.
Sáng sớm. Một hồi còi
của Ban Phụ trách trại vang lên. Trước lều của mình anh em đã xếp hàng một
chỉnh tề chuẩn bị lễ chào cờ. Mỗi lều tập hợp theo từng nhóm địa phương hoặc
những nhóm bạn thân. Có nhóm Saint Germain (en Laye), nhóm Saint Sulpice, nhóm Bordeaux-Toulouse
v.v..
Tiếng hô “Nghiêm. Chuẩn
bị chào cờ. Chào” của anh Trương Ngọc Liễu, một trong những người phụ trách
trại, vang lên. Mọi người đều đứng nghiêm, mắt hướng về lá quốc kỳ. Anh NNH.,
người “quản ca” của ban văn nghệ Việt kiều, đã bắt nhịp cho mọi người đồng thanh hát bài Quốc ca. Trên đỉnh cột cao, lá cờ đỏ sao vàng no gió toả
rộng rồi tung bay phần phật trong nắng sớm trên nền trời trong vắt buổi đầu
Thu. Tự nhiên sống mũi tôi cay sè, mắt tôi nhoà lệ vì cảm động. Hôm nay tôi mới lại được ngắm nhìn thoải mái lá
cờ Tổ Quốc thiêng liêng. Không khí tôi hít thở như trong lành hơn. Tôi có cảm
tưởng như mình đang được đứng trên mảnh đất Việt Nam đã được Tự do Độc lập. Lễ
chào cờ này đơn sơ nhưng đối với
tôi là một kỷ niệm khó quên.
2.TỪ QUẢNG TRƯỜNG NATION
ĐẾN
QUẢNG
TRƯỜNG BASTILLE
Quảng
trường Nation
|
Hằng năm nhân Ngày lễ
Quốc tế Lao động 1-5 nhân dân lao động Pháp đều tổ chức biểu dương lực lượng.
Tại Paris Tổng Liên Đoàn Lao Động Pháp (CGT), Đoàn Liên Hiệp Thanh Niên Cộng
Hoà Pháp (UJRF) cùng các tổ chức cánh tả có cuộc diễu hành truyền thống từ Quảng
trường Nation đến Bastille. Đoàn thể Việt kiều cũng
tham gia cuộc diễu hành với một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn dẫn đầu. Đề phòng
cảnh sát, an ninh Pháp có thể gây khó dễ, Ban tổ chức đã bố trí một lực luợng
bảo vệ vững chắc. Người được chọn để giương cao lá Quốc kỳ là anh VPNg. một
công nhân Việt Nam có thân hình cao lớn. Đi bảo vệ anh Ng. có anh Nguyễn Hữu Còn (Hai Còn) và một vài
anh nữa. Mọi người đều rất “đô con” . Các anh được chọn vì ngoại hình to khoẻ,
có “võ”, và nhất là vì có quyết tâm bảo vệ lá Quốc kỳ trong bất kỳ tình huống
nào. Vì cũng đã từng xảy ra trường hợp Quốc kỳ bị
cảnh sát cướp mất. Đi sau Quốc kỳ là các đoàn thể Việt kiều : công nhân, trí
thức, sinh viên học sinh, thương gia, đủ mọi lứa tuổi từ cụ già đến em bé tay
cầm những lá cờ đỏ sao vàng nhỏ bằng giấy.
La
Bastille
|
Điều đáng cảm động là
trên đường đi , đây đó thỉnh thoảng trên một ô cửa sổ nhỏ ta bắt gặp một lá cờ
đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Đó có thể là một gia đình công nhân người Việt,
hoặc người Pháp có cảm tình với Việt Nam. Khi gặp các đoàn công nhân Bắc Phi
(Algérie, Maroc) các bạn Bắc Phi lại hô vang “Việt Nam, Việt Nam.Việt
Nam” , “Hồ…Hồ..Hồ… Hồ Chí Minh” . Đoàn Việt Nam cũng cùng hô các khẩu
hiệu tay vẫy tít cờ đỏ sao vàng để đáp lại sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Sự trân trọng đối với lá
cờ đỏ sao vàng, lời ca tụng Việt Nam, ca tụng chủ tịch Hồ Chí Minh từ phía các
bạn Pháp, Bắc Phi và các bạn quốc tế khác đã nói lên tinh thần Quốc tế vô sản
đẹp đẽ. Tinh thần đó đã tiếp thêm sức mạnh cho những Việt kiều yêu nước trong
hoạt động ủng hộ kháng chiến chống Pháp ngay trên đất Pháp những năm 50 của thế kỷ trước.
3. ĐÊM MAUBERT -
MUTUALITÉ
Không khí đêm nay tại
“Hội Trường Tương Tế” (Maison de la Mutualité), mà Việt kiều thường gọi là
Phòng họp Maubert, thật náo nức. Từ khắp nơi từng nhóm đông nghịt Việt kiều từ
métro, từ xe bus đổ xuống ga Maubert-Mutualité để vào phòng họp.
Đã mấy hôm nay đài
truyền thanh Quốc gia Pháp, đài Paris-Inter , các báo buổi sáng, buổi chiều
ngày nào cũng loan tin những trận đánh ác liệt ở biên giới Việt-Trung (tài
liệu lịch sử sau này gọi là “Chiến dịch biên giới”). Người ta hồi hộp theo
dõi cuộc rút lui đẫm máu của binh đoàn Charton-Lepage trên những con đường đèo
núi đá vôi hiểm trở, được mô tả rất sinh động qua các bài viết của các phóng
viên chiến trường Lucien Bodard (France-Soir), Robert Guillain (Le Monde) gửi
về. Tin Thất khê rồi Đông khê lần lượt rơi vào tay quân đội Việt Nam như những
“tiếng sét nổ ra trong bầu trời yên tĩnh”. Vì thế hôm nay bà con Việt kiều nô
nức tới họp mặt hy vọng được nghe những “tin chiến sự sốt dẻo” từ bên nhà gửi
sang.
Khỏi phải nói niềm kiêu
hãnh và sự vui mừng của người Việt Nam ở Pháp là như thế nào ! Tuy nhiên
niềm vui phải dồn nén để khỏi làm thương tổn lòng tự ái dân tộc của bạn bè
người Pháp.
Một hồi chuông reo báo
hiệu khai mạc. Anh Nguyễn Duy Tân (mới mất cuối năm 2010 tại TP.HCM), người dẫn
chương trình quen thuộc, giới thiệu nội dung buổi họp gồm hai phần. Phần đầu là
tin thời sự nước nhà, phần hai sẽ là một chương trình văn nghệ đặc biệt. Bộ đồ
lớn mà anh mặc làm cử toạ lại phỏng đoán sẽ có một điều gì quan trọng sắp xảy
ra.
Qua báo chí Pháp, người
Việt mới chỉ thấy được tính chất ác liệt của chiến sự. Ở đây diễn giả còn cho
cử toạ thấy được tinh thần đoàn kết, gương hy sinh “tất cả cho chiến thắng” của
nhân dân và quân đội Việt Nam. Bà con Việt kiều hiểu được ý nghĩa của chiến
tranh nhân dân hơn và càng vững lòng tin tưởng ở thắng lợi ngày mai.
Rồi chương trình văn
nghệ đặc biệt mà Việt kiều mong đợi cũng đã đến ! Đèn phòng họp mờ dần.
Chỉ còn tấm màn nhung đỏ trên sân khấu được chiếu sáng. Sau 3 tiếng gõ cộp cộp
quy ước tấm màn nhung từ từ mở rộng. Và kìa anh NNH., giọng ca vàng của Việt
kiều, đã bước ra chào khán giả và giới thiệu anh sẽ hát một bài hát nóng hổi
tính thời sự, bài “Trường ca Sông Lô” của Văn Cao từ trong nước vừa gửi sang.
Anh lịch sự ra dấu giới thiệu người đệm đàn là anh Cao Xuân Toàn ôm một cây
accordéon to quá khổ so với tầm vóc của anh. Những hợp âm réo rắt rồi giọng hát
trầm hùng của anh H. vang lên. “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau,
núi rừng âm u”…Thu ru bến nắng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói Thu . Nhưng sông Lô đã dậy sóng khi tàu chở quân xâm
lược hùng hổ kéo qua. “Sông (Lô) gầm âm vang
tiếng trái phá” cùng với “thây giặc trôi ngập bờ”. Tàu giặc đã bị diệt tan, sông Lô trở lại êm
đềm “Dòng sông Lô trôi.Dòng sông Lô trôi”. Hai anh H. và Toàn cúi chào trong tiếng
vỗ tay kéo dài của khán giả.
Màn nhung vừa khép lại
lại mở ra ngay sau đó. Trên sân khấu còn tối đen chợt vang lên lời giới thiệu
diễn biến chính của trận đánh Thất Khê – Đông Khê. Khán giả trầm trồ vì giọng
“đầm” khá chuẩn của người giới thiệu. Đây là một giọng nói mới. Mấy anh bạn
ngồi sau bảo nhau đó là tiếng chị NTCh., con gái BS NVH. một trí thức nổi
tiếng, vừa từ Hà Nội sang. “…và đây là cảnh bộ đội
ta giải phóng đồn Đông Khê” lời chị Ch. vang
vang.
Sân khấu sáng dần trong
tiếng tiểu liên nổ giòn cùng những buớc chân chạy rầm rập và tiếng hô xung
phong. Bóng những anh bộ đội thoắt ẩn thoắt hiện, lúc bên phải lúc bên trái vừa
chạy vừa nổ những tràng tiểu liên rất đanh. Rồi sân khấu lúc này đã sáng trưng
nhưng không một bóng người. Một loạt tiếng reo mừng chiến thắng vọng đến từ xa
xa. Rồi kìa một tiểu đội chiến sỹ đầu mang mũ lá rộng vành cài lưới nguỵ trang,
túi gạo quàng quanh áo trấn thủ rầm rập tiến vào. Đi đầu là một anh bộ đội to
cao (anh Đặng Xuân Phong) tay giương cao cờ đỏ sao vàng. Các chiến sỹ vừa đi
vừa cất cao lời ca “vào Đông Khê lần đầu
tiên trong chiến dịch biên giới…” hoà với tiếng vỗ tay rộn ràng. Khán giả cũng náo nức vỗ tay hoà
nhịp. Các chiến sỹ sau khi chạy một vòng quanh sân khấu đã tập hợp theo hàng
ngang hai bên người đội trưởng. Lá quốc kỳ trên tay anh đội trưởng lúc này được
phất lên, tung bay như reo mừng chiến thắng. Toàn thể khán phòng đều đứng bật
dậy. Tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay dội lên như sấm. Người ta không còn nghe rõ lời
ca. Rất nhiều người miệng cười rạng rỡ mà mắt nhoè vì cảm động.
Phải nói là khán phòng
hoan hỉ trong niềm vui không bờ bến…trừ một người từ lúc mọi người đứng dậy
hoan hô đến giờ vẫn ngồi im, mặt đỏ lên không phải vì vui mừng mà quai hàm bạnh
ra vì tức giận. Người đó là Le Curieux (tên thật hợp với nghề “dòm dỏ” của anh ta) thanh tra cảnh sát
quận 5 nổi tiếng, chuyên theo dõi Việt kiều tại Quartier Latin.
Chú thích :
Trước năm 1954 tại những
vùng Pháp còn tạm chiếm tại Việt Nam, cũng như những nơi còn là thuộc
địa của Pháp như một số lãnh thổ ở châu Đại dương, việc treo Quốc kỳ Việt Nam
là một việc làm nguy hiểm có khi phải đổi bằng mạng sống. Xin được trích những
giòng sau từ hồi ký “Từ châu Đại dương trở về Việt Nam” của Đồng Sỹ Hứa, một
Việt kiều hoạt động Công đoàn tại Tân Đảo (Nouvelles Hébrides, nay là Vanuatu)
và Tân Thế (Nouvelle-Calédonie) từ 1938-1947.
“Tôi tự cho phép mình có
những sự tự tiện. Ở bàn giấy cũng như ngoài đường phố chẳng ai nói gì tôi cả
khi tôi đeo ở túi áo một huy hiệu đỏ với ngôi sao vàng năm cánh….Ở đây [các mỏ
A.S.215, Propect thuộc thị trấn Voh, Tân Thế Nlle Calédonie] chúng tôi được tin
có một cuộc xung đột đang xảy ra giữa người Pháp và những người Việt Nam vì
người Việt muốn kéo lên không gian quốc kỳ của mình. Khi đến trận địa, chúng
tôi chỉ nhìn thấy những người Việt Nam bị thương và một lá cờ Việt Nam bị xé…
Ít lâu sau, chúng tôi được biết rằng gần như cùng một thời gian đó, ở La Foa,
trên địa phận của ông Delathière, một cuộc kéo cờ Việt Nam đã kết thúc với một
người chết. Một đồng bào tên là Bách, bị hạ thủ bằng súng săn, người bắn không
được xác định tên tuổi… tôi đề nghị tổ chức lễ chào quốc kỳ và được mọi người
đứng lên hoan hô…” sau
đó là việc phân công dựng cột cờ, may cờ và may khẩu hiệu, tổ chức đội bảo vệ
an ninh [lễ chào cờ] “Ban trật tự với sơ-mi trắng, quần xanh, mũ nồi
bátscơ và có thể có cả búa hay cờ-lê-mỏ-lết dắt giữa sơ mi và quần…Luật quốc tế
được tôn trọng : quốc kỳ Việt Nam kéo lên không gian với cờ Pháp bên phải , lá
cờ Anh bên trái [khi đó Nlle Calédonie còn là condominium do cả Pháp và Anh
quản trị]” (Đồng Sỹ Hứa. Từ châu Đại dương trở về Việt Nam. Chương II. Quốc kỳ
trang139-149 Nhà Xuất Bản Thuận Hoá-Huế 1997).và chúng ta hãy vui với niềm
vui của Việt kiều Tân Đảo “ Ngày 30-6-1946 là ngày vui nhất của anh chị
em Việt kiều ở Tân Đảo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng tiền phong của giai cấp công
nhân, chúng tôi đã thực hiện khối đoàn kết toàn thể kiều bào, công nhân, tiểu
thương, công chức, lương và giáo, và đoàn kết chặt chẽ với lao động và nhân dân
Tân thế giới, với lao động và nhân dân Pháp. Nhờ vậy mà ngày 30-6-1946, chúng
tôi đã kéo được cờ lên không gian thị trấn Vila, thủ phủ của quần đảo Tân đảo,
trên đảo Vatê, và tuyên bố đoạn tuyệt với cuộc đời nô lệ, bước vào giai đoạn
đấu tranh có tổ chức… Cờ đỏ sao vàng kéo lên giữa thành phố Vila đã làm nức
lòng mọi người, thêm sức đấu tranh cho mỗi người. Anh em thuỷ thủ ở Tân thế
giới hay ở Pháp nói rằng từ ngoài khơi vào,trông thấy cờ đỏ sao vàng phấp phới
chính giữa thành phố gây nên cho người công dân Việt Nam ở đất khách quê người,
cho người chiến sĩ Cách mạng bốn phương trời một cảm giác lạ thường, vừa kiêu
hãnh, vừa tin tưởng….” trích hồi ký “Những ngày tháng tám” (Đồng Sỹ
Hứa. Nhà Xuất Bản Văn Học. Hà Nội 1961
Baillet.
Ngọn lửa trại đỏ hồng đã
bùng bùng cháy ở trung tâm sân. Xung quanh, từng nhóm từng nhóm các anh các chị
tập hợp theo tổ của mình đang chuyện trò rôm rả. Ban Phụ trách trại lên tiếng chào mừng những người tham dự và tuyên bố
đêm liên hoan bắt đầu.
Khai trại là nhóm Hướng
đạo sinh ngành Tráng gồm các anh TTQ., anh L. “kiếng”, anh Gấu (L.), chị TC.
với màn “Lễ thánh Allah”. Mọi người thán phục anh L. vì các động tác “prière
mahométane” rất chuẩn và lời cầu nguyện “Allah chí cao, người sống muôn đời” được các bạn diễn phụ hoạ “như thật”.
Rồi kìa sao trong đêm
lửa trại này lại xuất hiện người phụ nữ trong bộ đầm dạ hội trắng hở ngực rất
rộng và lưng gần như trần thế kia ?! Trông điệu bộ của cô với đôi mắt đong đưa
người ta dễ dàng nhận ra người của giới “chị em ta”. Đưa tay ngoắc đầy ngụ ý cô
nói :
- “Hello mon chou, tu viens chéri ?” rồi cô hát tiếp bằng tiếng Việt “Từ khi tôi qua Balê, thấy nhiều cái hay hay ghê ! mỗi nơi một bộ tịch một hạng tiền, nơi hai ba trăm, nơi năm mươi ngàn…”.
- “Hello mon chou, tu viens chéri ?” rồi cô hát tiếp bằng tiếng Việt “Từ khi tôi qua Balê, thấy nhiều cái hay hay ghê ! mỗi nơi một bộ tịch một hạng tiền, nơi hai ba trăm, nơi năm mươi ngàn…”.
Vừa nhún nhẩy đi qua đi
lại trình diễn các điệu bộ gợi cảm rất nhà nghề vừa kể vanh vách tên các xóm
bán hoa lừng danh ở Paris như Strasbourg-Saint Denis, Madeleine,
Champs-Élysées.
Tiếng vỗ tay, tiếng cười
vui vẻ oà lên. Mọi người đã nhận ra anh Cao Xuân Toàn trong vai “cô gái bán
hoa” . Đây là màn trá hình “ruột” nổi tiếng của anh mà anh ưa trình diễn trong
các lửa trại sau này.
Đọc thơ là tiết mục tiếp
theo. Anh BXT. và một anh bạn đọc bài thơ của đêm nay. Thời gian qua đã lâu lắm
rồi nên tôi không còn nhớ tên bài thơ, tên tác giả. Chỉ biết rằng bài thơ nói
về những hy sinh thầm lặng và cao cả của một đơn vị bộ đội đi chiến đấu bảo vệ
biên cương. “Anh T. nằm lại ở biên
giới Việt-Lào, anh M.
nằm ở X nơi đất trời không biên giới ! …”.
Giọng đọc trầm trầm, run lên và như nghẹn lại vì cảm động ở những đoạn cao trào. Đêm dần khuya. Lửa trại vạc dần, trời
se lạnh.
Chia tay về nghỉ trong
lòng mọi người còn chưa hết những phút hào hứng quanh lửa trại. Nhưng trong
tiềm thức hẳn không khỏi trạnh lòng nghĩ tới những người con anh hùng đất Việt
đã hy sinh âm thầm trong khi làm nghĩa vụ cao cả bảo vệ quê hương.
TOURAINE
Năm nay Ban Phụ trách
Việt kiều chọn vùng Touraine, thung lũng sông Loire để dựng trại hè. Là nơi có các con sông Indre, Loire và Cher chảy
qua. Vùng này nổi tiếng thế giới với địa danh “các lâu đài vùng sông Loire”. Có
thể nói không ngoa rằng vùng sông Loire là nơi “ra ngõ gặp lâu đài”. Ta thử xem
như khi đánh vần gọi điện
thoại nhé.
- A… như Amboise. Không! Thế thì Azay-le-Rideau
vậy.
- B… như Blois.
- C… như Chambord, hoặc như Chaumont, hay
Chenonceaux nếu bạn thích.
- V… như Valençay, hay Villandry v…v.
Có lẽ không có đày đủ 36
mẫu tự để bạn lựa tên các lâu đài vùng sông Loire, nhưng các lâu đài kể cả to
nhỏ chắc chắn nhiều hơn số ngón tay trên tay bạn.
Đa số các lâu đài này
được xây dựng từ đầu thế kỷ XVI. Nhưng cũng có những lâu đài có từ thế kỷ XI
(Chaumont), hay muộn hơn thế kỷ XVI-XVII (Valençay). Dù xây dựng sớm hay muộn
các lâu đài này đều được người các đời sau, và cả người đời nay, tu bổ thêm,
bảo trì chu đáo để “lâu đài vùng sông Loire” luôn xứng danh là một thắng cảnh
đáng tự hào của nước Pháp.
Đối với các bạn trong
ngành kiến trúc hay hội hoạ thì buổi tham quan hôm nay thực là một bữa ăn thịnh
soạn cho đôi mắt. Chúng ta được chiêm ngưỡng những công trình tiêu biểu của
thời Phục hưng (mang ảnh hưởng Ý) ở dạng thuần tuý nhất soi bóng lộng lẫy trên
các dòng Loire, Indre và Cher. Ý tưởng “cách mạng” trong xây dựng của tầng lớp
quý tộc Pháp đầu thế kỷ XVI là đã biến những kiến trúc mang tính chất phòng thủ
của những pháo đài thời Trung cổ thành nơi cư ngụ sang trọng cho các vua chúa
Pháp. Như Charles VIII, Louis XII, François đệ nhất, các quý bà Catherine de
Médicis, Diane de Poitiers và nhiều nhà quyền quý thế kỷ XVI-XVII đã từng sinh
sống tại các lâu đài này.
Nếu có ai hỏi lâu đài
nào đẹp nhất trong các lâu đài sông Loire thì thật khó trả lời vì mỗi cái một
vẻ, mình lại là dân ngoại đạo. Riêng đối với tôi, tôi thực sự bị ấn tượng bởi
Chambord và Chenonceaux.
Lâu
đài Chenonceaux với 5 nhịp
|
Chambord vì vẻ hoành
tráng của lâu đài với mặt tiền dài 128m, có 440 phòng, 80 cầu thang, 365 ống
khói và 500 ha rừng bao quanh. Leonard de Vinci đã được vua François đệ nhất
yêu cầu xây cất lâu đài Chambord để chứng tỏ vẻ uy nghi của triều đại của mình mặc
dù ông vua này không hề ở đó ngày nào. Còn Chenonceaux có đặc điểm là có dãy
nhà cầu 5 nhịp bắc qua suốt chiều ngang sông Cher, và các tháp tròn nhọn đầu
thế kỷ XVI.
Trên xe bus rong ruổi
tiếp tục chuyến tham quan mọi người râm ran bàn tán sôi nổi. Người thì trầm trồ
về nội thất cùng những hiện vật tráng lệ, người lại tán thưởng các khu vườn hoa
cắt tỉa công phu kiểu Pháp.
Trên đường về trại những
con đường nắng ấm vàng xứ Touraine lồng lộng gió. Lòng người phơi phới. Người
ta muốn hát lên để biểu lộ niềm vui. Người ta hỏi nhau hát bài gì ? Một giọng
đề nghị “Tổng phản công”. Thế là vang lên “Nhân dân ta tiến lên tổng phản công. Mau nắm lấy thời cơ đang đợi
ngày về…tiến lên đi cùng nhau diệt thù. Giết không thương, giặc kêu không tha…” Tiếp ngay sau là “Tiến về Hà Nội” với “năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về, như đài hoa đón chào nở năm
cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh…” Mọi người say sưa ca hát mường tượng như đã hoà mình trong đoàn
quân chiến thắng ngày trở lại Thủ đô Hà Nội. Giọng ca còn rền vang cho mãi đến
khi xe dừng bánh trong khu trại râm mát tỉnh Tours.
LOUVIERS
Năm nay trại hè Việt
kiều chọn xứ Normandie Thượng. Trong trí tưởng tượng của tôi Normandie gắn liền
với hình ảnh những con bò lang to lớn đang cúi mình gặm cỏ mắt lờ đờ
dõi theo một đoàn tàu hoả đang phun khói xa xa.
Louviers nơi chúng tôi
hạ trại không có cái gì tương tự như vậy. Nó cũng giống như các khu “camp de la
jeunesse” khác gồm nhiều căn nhà trệt sáng sủa tiện nghi, một khu đất rộng để
có thể dựng lều vải, đốt lửa trại, sân bóng chuyền v…v.
Nay đã là năm 1954. Tại
Việt Bắc quê nhà những tin chiến thắng liên tiếp từ mặt trận Điện Biên Phủ bay
đến làm nức lòng người Việt xa xứ. Người ta tự nhiên thấy cần gặp mặt những
người đồng bào của mình nhiều hơn. Gặp để trao đổi tin tức, để chia xẻ niềm
vui, lòng tự hào được là người Việt Nam chiến thắng. Vì vậy các buổi họp mặt,
các trại hè Việt kiều cũng đông vui hơn. Và điều đáng mừng là ngày càng nhiều
gương mặt trẻ đến tham gia các hoạt động của Việt kiều. Tôi chỉ nhớ tên một số
như LHPh. (cháu anh Kh., V.); anh Th. (em chị H.); NĐL., N., H. (em và cháu chị
Ng.T MV.), L. U. (người sẽ là trưởng ban Lễ tân của Đoàn Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời miền Nam Việt Nam tại hội nghị Paris sau này) và còn nhiều anh em khác
nữa. Đây là một lực lượng hậu bị đáng quý cho phong trào đấu tranh của Việt
kiều yêu nước cho hiện tại và tương lai. Thực vậy có ai vào thời điểm đó lại
nghĩ rằng cuộc kháng chiến dành độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước Việt
Nam lại còn kéo dài hơn 20 năm nữa !
Trên sân bóng chuyền
đang diễn ra các trận đấu quyết liệt tranh giải Vô địch Louviers 1954. Các đội
mạnh như liên quân Bordeaux-Toulouse, Coulommiers-Chartres v…v đã không qua
được vòng loại.
Vào chung kết năm nay là đội Saint Germain-en Laye gặp đội Saint Sulpice. Saint Germain-en-Laye (TTTh., ĐCTh., L. (Gấu), PTKh., L. (hàng Bông), có Nguyễn Chí Vĩnh “hột vịt” tăng cường), nhiều lần vô địch các năm trước, là đội có những quả giao bóng và đập sát biên rất lợi hại. Saint Sulpice (ĐXPh., TNL., TNA., TCT., TCV., C.) lại có thế mạnh với tay “chuyền hai” P. để A. với những quả đập như cắm xuống sân hoặc bỏ nhỏ rất thông minh ăn điểm. Hai đội rượt đuổi từng điểm, từng ván đấu. Sân bóng luôn vang dậy tiếng hò reo cổ vũ của các supporter của hai đội. Cuối cùng do kinh nghiệm thi đấu nhiều hơn đội Saint Germain-en-Laye thắng sát nút 3-2 đoạt chức vô địch.
Đêm lửa trại năm nay có
nhiều giọng ca mới. Bài “Lửa rừng đêm” do tốp ca nữ gồm các chị TAH, TMPh.,
NTH., NTC., Y . (?) em các chị AH. MPh. trình bày có lời ca thật thích hợp cho
một đêm lửa trại. “Rừng muôn cây
xanh cao, âm u ngàn thác lá, dưới bóng ánh trăng sao, ngồi xung quanh phiến đá
ta khơi lửa đào. Bập bùng, bập bùng trong đêm thâu…”. Biết đâu trong đêm nay ở một
khu rừng nào đó trong chiến khu nước nhà các anh bộ đội ta cũng chả đang ca bài
này sau khi công đồn thắng lợi trở về.
Tiếp theo còn nhiều bài
hát đương thời được ưa thích tại Pháp được các “danh ca cây nhà lá vườn” biểu
diễn với nhiệt tình sôi nổi. Trong đó phải kể đến sự thành công của các bài “La
complainte des infidèles” do một bạn ở Marseille hát với giọng ca mượt mà và
chuẩn không thua gì ca sỹ Mouloudji ; bài “Le train sifflera trois fois” với
lời Việt của anh TNK. một giọng ca mới nổi của Việt kiều và bài “Malaguena” do
hai anh NVL (L. râu) và PVD. hợp ca, có những luyến láy đặc trưng rất lạ và dễ
thương của dòng nhạc Tây Ban Nha-Nam Mỹ.
P.Mendes France |
Người sẽ nhận chức Thủ tướng Pháp ngày 18 tháng 6 năm 1954. Gần một tháng sau ông sẽ thay mặt nước Cộng hoà Pháp ký bản Hiệp nghị Genève năm 1954 lập lại hoà bình ở Đông Dương.Trong bối cảnh chính trị năm 1954 tại Pháp Louviers còn có điểm khác đáng chú ý. Là một quận của Évreux, tỉnh lỵ tỉnh Eure, Louviers có ông thị trưởng đương thời là Pierre Mendès-France
Vì những lý do đó trại
hè Louviers cũng đáng có một chỗ đáng nhớ trong phong trào Việt kiều yêu nước
tại Pháp lắm chứ ?!!.
5.NHỮNG ĐỊA ĐIỂM &
NHỮNG SỐ NHÀ
(Hơn 50 đã trôi qua kể
từ ngày những sự việc được kể lại trong những trang đã đăng tải trong bài
viết này. Quá trình đô thị hóa không dừng lại bất kể ở đâu vì vậy diện mạo các
ngôi nhà, đôi khi cả số nhà cũng không còn như xưa. Mong rằng bạn đọc ngày nay
có đi qua những nơi đó cũng thông cảm và bỏ qua những lỗi lầm bất khả kháng nếu
có. Tác giả rất lấy làm cảm tạ)
Nhà Hội Tương Tế là một ngôi nhà thuộc Các Công Đoàn Trung Ương
(CGT-FO) tại Paris. Nằm giữa xóm La tinh (Quartier Latin) với sự giao thông
thuận tiện, người ta có thể đi đến Nhà Hội Tương Tế bằng xe bus, métro với
nhiều trạm đỗ. Gần nhất là trạm bus Place Maubert hay trạm métro
Maubert-Mutualité. Cũng vì thế kiều bào ta thường chỉ gọi là Hội trường
Maubert-Mutualité hay vắn tắt là Maubert.
Các dịp lễ kỷ niệm lớn
hàng năm của Việt Nam như Quốc khánh 2-9, Tết Nguyên đán, các buổi biểu diễn
văn nghệ thường được tổ chức tại Maubert. Những cuộc hội họp có đông người Việt
như thế thể nào cũng được sự “chăm sóc” đặc biệt của cảnh sát quận 5 (quận sở
tại) với sự hiện diện “không mời mà đến” của thanh tra Le Curieux mà kiều bào
đã nhẵn mặt.
Khán giả của các buổi
biểu diễn tại Maubert chắc khó quên đêm diễn vở kịch thơ “Tây Thi” .
Khán giả tấm tắc khen
anh NNH. trong vai Phù Sai đã lột tả được
phong thái của một hôn quân phong nhã đa tình; chị NTV. trong vai Tây Thi thể hiện tài tình một cung phi kiều mỵ, tuy đôi chỗ lời ngâm thơ hơi lạc sang giọng “nói lối” cải lương. Đối với nhiều khán giả thì “khám phá” lớn nhất của vở diễn lại là vai Ngũ Tử Tư. Cho đến mãi lúc bỏ hoá trang chào khán giả thì mọi người mới ồ lên kinh ngạc khi biết thủ vai Ngũ Tử Tư lại là một chị (chị Trần Thị Lý. vợ anh Nguyễn Duy Tân). Từ giọng nói, dáng đi, chị đã tái hiện được một vị lão thần trung quân ái quốc hết lòng lo cho nước sắp lâm nguy vì quân vương nghe lời xiểm nịnh, “hai tay run bắn vì tức giận” gian thần Thái tể Bá Hy tham lợi cá nhân mà quên mối lo Câu Tiễn sắp xâm chiếm nước nhà.
phong thái của một hôn quân phong nhã đa tình; chị NTV. trong vai Tây Thi thể hiện tài tình một cung phi kiều mỵ, tuy đôi chỗ lời ngâm thơ hơi lạc sang giọng “nói lối” cải lương. Đối với nhiều khán giả thì “khám phá” lớn nhất của vở diễn lại là vai Ngũ Tử Tư. Cho đến mãi lúc bỏ hoá trang chào khán giả thì mọi người mới ồ lên kinh ngạc khi biết thủ vai Ngũ Tử Tư lại là một chị (chị Trần Thị Lý. vợ anh Nguyễn Duy Tân). Từ giọng nói, dáng đi, chị đã tái hiện được một vị lão thần trung quân ái quốc hết lòng lo cho nước sắp lâm nguy vì quân vương nghe lời xiểm nịnh, “hai tay run bắn vì tức giận” gian thần Thái tể Bá Hy tham lợi cá nhân mà quên mối lo Câu Tiễn sắp xâm chiếm nước nhà.
Ngôi nhà này có một vị
trí quan trọng trong phong trào đấu tranh của Việt kiều yêu nước những năm 50
của thế kỷ trước.
Hội
quán Ái Hữu 11 J.de Beauvais
|
Nằm ở cuối một phố nhỏ
quận 5, phố này là một phố cụt. Một đầu phố thông ra Boulevard Saint Germain,
còn đầu kia tuy nối với phố rue des Écoles nhưng phải đi lên bằng một cầu thang
sắt ngắn.
Qua một vòm cổng cũ kỹ,
rẽ phải rồi lên lầu 1 bằng một cầu thang cũng già nua như toàn thể ngôi nhà là
ta đã bước vào nơi gọi là Phòng họp của Hội Ái Hữu người Việt Nam tại Pháp
(Amicale des Annamites en France). Xin được gọi tắt là Ái hữu. Đây là một căn
hộ nhỏ có 2 phòng. Phòng ngoài khoảng 12m2 với một bếp và phòng vệ sinh sơ sài. Phòng lớn
phía trong có 2 cửa sổ lớn, sức chứa chừng 60-80 chỗ ngồi. Nội thất căn hộ đơn
sơ sạch sẽ, không có dụng cụ gì đắt tiền. Trang trí duy nhất là bảng danh sách
các danh nhân và anh hùng của lịch sử Việt Nam từ Trưng Trắc, Trưng Nhị đến Hồ
Chí Minh. Danh sách này được đắp bằng chữ nổi mầu vàng trên nền nâu đỏ ngay phía trên lò sưởi của phòng họp lớn. Bảng
danh sách này đã gây ấn tượng lớn đối với tôi ngay khi nhìn thấy lần đầu. Thật
vậy ! không một nơi nào trên đất Pháp mà ta lại nhìn thấy
một danh sách nhiều tên người Việt Nam như thế. Mà toàn là những tên người đã làm nên những
chiến công hiển hách, chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang. Chỉ một
thoáng nhìn mà cả một lịch sử oai hùng phút chốc sống lại trong tâm tưởng, khơi
dậy trong lòng ta lòng tự hào dân tộc !
Ái hữu ngày thường là
nơi chúng ta có thể đến ăn một tô phở, một bữa cơm Việt Nam đơn giản với giá rẻ
và chất lượng tạm được ; hoặc đánh cờ tướng, bóng bàn. Phục vụ cho quán ăn đều
là những người tình nguyện không lương. Đứng bếp có tổ phụ nữ (chị MTTr. và
nhiều chị khác), những người có tay nghề cao như cụ Ty, bà Hợi (nổi tiếng với các món cháo lòng
tiết canh và bánh cuốn) ; phục vụ bàn có anh NL., anh M. (em anh L.) v…v.
Nhưng nhiệm vụ quan
trọng nhất của Ái hữu là trụ sở, là nơi hội họp của các đoàn thể, các ngành các
giới Việt kiều ủng hộ kháng chiến chống Pháp đến liên hệ công tác. Ban Phụ
trách chung gồm có các nhà trí thức danh tiếng Phạm Huy Thông (Thạc sỹ sử học,
nhà thơ), BS. Nguyễn Khắc Viện, Kỹ sư Trần Thanh Xuân, nhiều anh em công nhân
(PV., THD. chồng chị BS. M.), sinh viên-học sinh (HTĐ., NNH., LBCh., NTMV.,
HHP.) và nhiều anh chị em khác mà tôi không được biết hết.
Các hội nghị quan trọng
của các ngành, các giới Việt kiều đều tổ chức tại đây cũng như các liên hoan
văn nghệ quy mô nhỏ. Chính tại nơi đây Việt kiều đã nhiều lần được thưởng thức
tài nghệ của anh Trần văn Khê, lúc đó hình như chưa chuyên nghiên cứu âm nhạc
vì còn đang theo học Sciences-Po, với bài
“Em đi chùa Hương” thơ Nguyễn Nhược Pháp lần đầu tiên do chính anh phổ nhạc (…Khăn nhỏ đuôi gà cao, em đeo giải yếm đào,
quần lĩnh áo the mới, tay cầm nón quai thao…..Chân đi đôi dép cong…; (một cô gái cổ như thế không thể nào laị đi đôi guốc cao cao được như lời trong bài Em đi chùa Hương cải
lương gần đây, thật là lai căng và sống sượng !); bài “C’est mon petit doigt”
nhạc Pháp vui nhộn; hay những cuộc biểu diễn nhạc cụ dân tộc mà bà con Việt
kiều xa xứ lâu ngày rất tán thưởng. Trong những lần trình diễn “mini” tại Ái
Hữu cũng đã phát hiện được nhiều “giọng ca vàng” mới. Nhiều người chắc còn nhớ những giọng ca mượt mà của Phạm Kỳ Nam, TNK.,
TBP. thời đó. Một số tranh về đề tài Việt Nam của các hoạ sỹ Lê thị Lựu, LBĐ.,
Trần văn Tuyên, PTNg. cũng được trưng bày tại nơi này. Cũng nên nhớ rằng Lê thị
Lựu và LBĐ. là những hoạ sỹ không chỉ nổi tiếng ở Pháp mà còn cả ở châu Âu,
Nhật, Mỹ thời đó. Ban Phụ trách Việt kiều có xuất bản một bản tin nội bộ làm
phương tiện liên lạc với Việt kiều trên toàn nước Pháp. Không chỉ dừng lại ở
chức năng thông tin bản tin của Ái hữu còn có nhiều bài văn, thơ, khảo cứu có
giá trị của các tác giả Việt kiều hay trong nước. Giả thử như còn lưu lại đến
ngày nay được thì những bản tin của Ái hữu chắc chắn là những tài liệu vô cùng
quý giá cho những ai muốn nghiên cứu về lịch sử đấu tranh của người Việt Nam
yêu nước ở nước ngoài, cụ thể là ở Pháp.
Ái Hữu còn là nơi giao
dịch với bạn bè quốc tế, các cá nhân hay đoàn thể Pháp có cảm tình với cuộc
kháng chiến của ta, các anh chị em Việt kiều muốn tham gia các hoạt động của
phong trào. Có thể coi nơi đây cái nôi của phong trào Việt kiều ủng hộ kháng chiến
chống Pháp. Chính từ cái nôi này mà nhiều anh chị em Việt kiều, đã thành danh
trong khoa học, đã có địa vị tại Pháp nhưng do lòng yêu nước đã từ bỏ tất cả để
trở về tham gia kháng chiến không ngần ngại khó khăn gian khổ. Trong số những
người đầu tiên mà tôi biết có các anh Võ Thế Quang, Nguyễn Hoán, VĐB,
LVC., Nguyễn Kim Huê, Phạm Kỳ Nam, HX.. Trước đó và sau đó còn có nhiều anh chị
khác mà tôi chưa biết hoặc chưa quen cũng đã về tham gia công tác trong nước.
22 Saint Sulpice Quận 5
(Paris)
Trong những dịp được
tham dự các sinh hoạt của Viêt kiều tại Maubert, Ái Hữu, các trại hè tôi luôn
luôn được chứng kiến nhiệt tình tham gia các công tác cho phong trào của nhóm
gọi là “nhóm Saint Sulpice”.
Phố
St Sulpice Q.5
|
Nhà số 22 Saint Sulpice,
quận 5 gần ngay Odéon, boulevard Saint Germain là chỗ ở của các anh chị em
“nhóm Saint Sulpice”. Nhóm này khá đông và theo tôi còn nhớ thì có các anh
NNH., Trương Ngọc Liễu, Đặng Xuân Phong, LBC., Nguyễn Hữu Còn, TNA. ; các chị thì có NTB., UTA., NTNh.. Có
thể còn nhiều anh, chị khác mà tôi không biết hay không nhớ hết. Điều đó không
quan trọng. Điều đáng nhớ là “nhóm Saint Sulpice” luôn luôn thể hiện tinh thần
xung phong gương mẫu, không ngại khó khăn nguy hiểm trong các hoạt động ủng hộ
công cuộc kháng chiến chống Pháp trong giới Việt kiều. Nhiều anh chị sau này đã
trở thành những cán bộ tốt trong phong trào Việt kiều (LBC.) hay tại nước nhà
(Đặng Xuân Phong, Trương Ngọc Liễu, NNH.).
Phố
Tournelles Q.4
|
Một nhóm anh chị em, tạm
gọi là “nhóm Tournelles”, từ lâu muốn kiếm một nơi vừa làm chỗ ở vừa là nơi làm
việc. Sau nhiều ngày tìm kiếm chúng tôi tìm được một căn hộ vừa ý tại quận 4.
Tournelles là một phố nhỏ yên tĩnh, cách quảng trường Bastille không xa, nằm
sau Boulevard Richard Lenoir . Căn hộ này chiếm toàn bộ 1 tầng lầu, có nhiều ưu
điểm là có nhiều phòng riêng cho nam nữ, có phòng khách rộng (có thể làm phòng
họp khi cần), có bếp gaz, điện, nước nóng lạnh, téléphone, thang máy. Ngoài ra
lại có 1 chambre de bonne ở tầng sát mái và hầm chứa đồ ở dưới đất (cave), đây
là một thuận lợi sẽ nói sau này. Về mặt giao thông cũng rất thuận tiện vì gần
các trạm métro, bus ; sang xóm Latinh, Ái hữu, phòng họp Maubert đều rất gần
chỉ 10 phút đi xe bus.
Chủ nhà chắc thuộc tầng
lớp phong lưu. Vì trong nhà có tường bọc gấm, sàn gỗ lát hoa văn trang trí được
đánh xi bóng. Ngoài ra còn có 2 đàn piano còn dùng được, đồ gỗ quí, đèn chùm
(lustre) và một số tranh sơn dầu khổ lớn. Chỉ cần mua sắm thêm một ít đồ dùng
hàng ngày là có thể dọn đến ở ngay. Khó khăn duy nhất là chủ nhà đòi một số
tiền đặt cọc khá lớn so với túi tiền của chúng tôi ngày đó (200.000 Fr thời
điểm 1952). Giải pháp tạm thời là tôi đồng ý sẽ tạm ứng số tiền đó (đây là số
tiền gia đình tôi gửi cho mấy anh em tôi dành để mua nhà) rồi các bạn trong
nhóm sẽ trả sau.
Khác với nhóm Saint
Sulpice gồm toàn các anh, chị miền Nam, nhóm Tournelles lúc đầu phần lớn gốc
Bắc sau đó có bổ sung nhiều anh chị miền Nam. Đầu tiên trong nhóm có các chị
MV., Ch., M. (S.); nam thì có TNK.,
Cao Xuân Toàn, S. (Tr.). Sau đó còn có nhiều người nữa như chị H. (H.), PVD.,
NVL., vợ chồng anh Nguyễn Duy Tân. v…v.
Căn nhà Tournelles có
thể coi như một trụ sở dự bị cho phòng họp Ái hữu. Ban văn nghệ của Việt kiều
thường họp tại đây tập dượt trước cho các buổi trình diễn tại Maubert. Lúc thì
tập hợp xướng, lúc thì tập các ca cảnh “ngày mùa vui thôn trang….gánh thóc về, gánh thóc về…”. Bài hát “Cho tôi sống lại một ngày” ca tụng những ý chí tự do dân chủ tương đồng giữa Cách mạng
14-7-1789 của Pháp với Cách mạng 19-8-1945 của Việt Nam “cũng như anh tôi mang hồn tháng 7 làm hồn tháng
8,… không muốn mãi ở trong vòng trói buộc, không muốn mãi ở trong vòng nhơ
nhuốc, không muốn mãi ở trong vòng ngàn năm u tối cũng như anh, tôi không muốn
sống đoạ đày” đã được anh K. cùng các
bạn khác tập rất say sưa. Những buổi tập có khi có tới gần 20 người, hát
hò, nhảy múa kéo dài tới gần 12 giờ đêm. Nhưng may là các nhà “hàng xóm” không
khi nào phàn nàn vì sự ồn ào khuya khoắt của chúng tôi. Có một chi tiết lý thú.
Chắc mọi người còn nhớ là các bà concierge già ở Pháp thường là khó tính. Bà
concierge nhà chúng tôi cũng đã nhiều tuổi lại có cái tên là Madame Renard. Tuy
vậy bà “không có tính tò mò của một con cáo”, không hề dò xét việc làm của
chúng tôi mặc dù số người ra vào khá đông, giờ đi về khuya khoắt. Cho đến khi
tôi rời khỏi Tournelles (tháng 7-1956) nhà chúng tôi chưa bao giờ bị cảnh sát
thăm hỏi do hàng xóm hay bà concierge khiếu nại. Căn hầm và gian chambre de
bonne cũng là nơi thuận lợi để cất giấu tài liệu trong một số trường hợp cần
thiết.
Nhà Tournelles, theo tôi
hiểu, đôi khi còn là nơi họp bất thường của Ban lãnh đạo Việt kiều khi không
thể họp ở Ái hữu. Vì các vị lãnh đạo Ban Việt kiều như BS.Nguyễn Khắc Viện,
KS.Trần Thanh Xuân, hay các anh phụ trách Việt kiều ở các tỉnh DQT (Bordeaux),
Nguyễn Công Chánh (Grenoble), Nguyễn Mỹ Điền (London), mới mất năm 2010, cũng
thuờng ghé qua để gặp gỡ trao đổi công việc.
Rất nhiều hoạt động của
Việt kiều đã được thực hiện trong căn nhà này. Bản tin nội bộ của Việt kiều
phát hành trong toàn nước Pháp với số lượng hàng trăm bản được vô bao thư và
viết địa chỉ cũng được chuẩn bị tại đây. Sau đó anh em trong nhóm mang đi bỏ vô
các trạm bưu điện của các quận nội thành Paris. Chúng tôi đã thuộc lòng những
trạm nào lớn, thời gian nào vắng người lui tới vì số lượng thư cần gửi có khi
tới hàng trăm cho một bưu cục. Có lần chúng tôi đang trút một túi lớn có hàng
trăm thư vào thùng bỗng nghe tiếng la oai oái vì nhân viên bưu cục đang mở hòm
thư phía trong bị cả đống thư rơi trúng đầu.
Chúng tôi sống trong căn
nhà 20 Tournelles rất thân ái, vì vừa là đồng chí, vừa là đồng hương. Vì là một
căn hộ riêng nên chúng tôi có thể tổ chức những bữa liên hoan nhỏ mang đậm nét
gia đình khi có điều kiện. Căn hộ riêng còn rất thuận lợi cho một vài anh chị
có con nhỏ như cặp Tân-Lý, S-N. Chúng tôi có lần còn “khám phá” được mấy cân
miến tàu cùng 1-2kg thịt chà bông của người ở trước bỏ quên. Thế là những anh
chị em nào làm việc khuya lại tha hồ nấu miến với thịt chà bông để bồi dưỡng.
Năm tháng đã qua đi
nhưng chắc rằng những kỷ niệm mà các anh chị em đã từng chia bùi xẻ ngọt, cùng
nhau học tập và làm một số công tác đóng góp cho phong trào Việt kiều yêu nước
tại Pháp những năm 50 của thế kỷ trước dưới mái ấm của căn nhà 20 rue des Tournelles
sẽ còn đọng lại trong tiềm thức của nhiều người.
THAY CHO LỜI KẾT
Tôi không phải là một
nhà văn, và cũng không có ý định sau này sẽ viết hồi ký, nên không có thói quen
ghi nhật ký. Vì thế bây giờ muốn tái hiện những kỷ niệm, đối với tôi là có ý
nghĩa đặc biệt, đã gặp nhiều khó khăn do sự việc xảy ra đã quá lâu. Nhiều gương
mặt, tên tuổi của các cụ, các bác, các anh chị Việt kiều thời đó tôi chỉ còn
nhớ mang máng.
Bài báo nhỏ này chỉ là
“gợi nhớ” để các anh, chị Việt kiều nhớ lại những kỷ niệm của một thời kỳ mà mọi người đã hăng hái đóng góp
hết tuổi thanh xuân của mình cho phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp. Rất
mong các anh, các chị sẽ bổ sung để vẽ lại toàn bộ bức tranh các hoạt động của
Việt kiều chúng ta thời gian đó một cách đầy đủ hơn.
Các sự việc, con người
nêu ra trong bài báo đều có thật, tuy trật tự thời gian có thể thay đổi ít
nhiều. Tôi rất tiếc, và thành thật xin lỗi, là đã không nêu được nhiều sự việc
hơn, không nêu được nhiều tên các anh, chị Việt kiều hơn của những người đã tận
tuỵ làm việc cho phong trào một cách thầm lặng. Đây không phải là do cố ý mà
chỉ vì không được biết hoặc do trí nhớ đã suy
giảm. Rất mong các anh chị lượng tình tha thứ.
Thành
phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2004
MAI
SINH (MAI THẾ TRẠCH)
đăng
lại tháng 4 năm 2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét