Trong
một buổi hội thảo gần đây
về
"Văn hóa ẩm thực Việt Nam và vị Umami" do trường Trung
học Nghiệp vụ du lịch và khách sạn TP.HCM tổ chức, các chuyên gia ẩm thực Việt
Nam và Nhật Bản đã giới thiệu vị mới này với nhiều
người.
Vị
mới này thực ra chỉ chưa được công nhận rộng rãi chứ không mới. Vì
nó đã được tìm ra từ
GS. Kikunae Ikeda |
năm 1908 bởi một học giả Nhật Bản là giáo sư Kikunae Ikeda
thuộc Đại học hoàng gia Tokyo khi nghiên cứu một loại canh nấu bằng tảo biển
tên là kombu. Vị của loại canh này khác hẳn với bốn vị ngọt,
chua, mặn, đắng đã biết. Kikunae Ikeda đặt tên cho vị thứ năm
mới tìm ra là “vị umami” (trong tiếng Nhật uman là
ngon và mi là vị).
Umami
nhanh chóng được chấp nhận ở Nhật, Triều tiên, Trung Quốc.
xxx
Thật
khó mô tả vị này cho chính xác. Nó có vị ngọt nhưng không phải là đường, giống
vị ngọt của thịt nhưng lại cũng có cả trong sữa non, rau củ, tảo biển. Từ 1980
thế giới đã công nhận khái niệm “vị umami” là một vị mới, được ghi trong từ
điển Wikipedia của các bản tiếng Anh, Pháp, Việt cũng như các tiếng nước khác.
Ý kiến cá nhân có thể gọi vị mới này là “vị ngon” vì
khi thêm chất này vào thức ăn thì chỉ có “hơi bị ngon” thêm
chứ không có “quá” như đối với các vị khác (ngọt, chua, mặn, đắng).
Các nghiên cứu sau này
đã xác định chất phụ gia gây ra vị umami là Glutamat natri (Glutamate
Monosodique, GMS hay Monosodium Glutamate MSG), là muối natri của axít
glutamic. Tuy nhiều ngôn ngữ gọi nó là GMS, nhưng trong tiếng Việt
thường gọi nó là bột ngọt hay mì chính. "Mì chính" là nhại âm Quảng
Châu 味精; nếu đọc đúng theo âm Hán-Việt thì phải đọc là "vị
tinh".
Năm 1909, công ty
Ajinomoto khám phá và lấy bằng sáng chế về glutamat natri. Gluatamat natri
nguyên chất có hình thức bột kết tinh trắng; khi ngâm vào nước (thí dụ nước
bọt) nó phân tích rất nhanh thành các ion natri và glutamat tự do (glutamat là
hình thức anion của axít glutamic, một axít amin tự nhiên).
Glutamat natri có trong
cơ thể con người qua các quá trình trao đổi chất. Các thực phẩm thiên nhiên như
nấm, đậu, rong biển, cà chua chín có khoảng 0,1 đến 1 % khối lượng là glutamat
natri.
xxx
Nhớ những năm 30 của thế
kỷ trước các đầu bếp nổi tiếng ở Hà Nội như ông Bếp Ba và vài vị khác nữa
thường được chèo kéo khi gia đình có tiệc, đám giỗ quan trọng. Các món ăn do
các đầu bếp trứ danh này chế biến thường có vị ngon ngọt làm người ta khó quên,
đặc biệt là các bát nấu có nước như vây (vi cá), bóng, măng tây, mọc v…v Chỗ
thân tình lắm có ông mới cho biết cỗ bàn của ông ngon vì có hộp “thuốc nấu”
này. Rồi cao hứng lắm thì ông lôi trong gói đồ nghề ra cho xem một chiếc hộp
hình chữ nhật màu vàng xanh có in tên hình như là VEJIN hay VESHIN (chắc là âm
latinh hóa của "vị tinh"味精 đã nói ở rên) gì đó có chứa một chất bột
trắng ngà ? Ông bảo một đám giỗ vài chục người ăn thì chỉ cần cho độ 3-4 muỗng
con tí xiu chất bột này vào nồi nước dùng đã ninh xương gà hay bò sẵn rồi là
“ngon quên chết” ! Chính hộp thuốc nấu đó, tức là “mì chính” đã làm nên danh
nên giá cho ông Bếp Ba. Của đáng tội các món xào nấu khác của ông cũng rất khéo
léo, sạch sẽ, gọn gàng và cách trình bày cũng rất bắt mắt rồi.
xxx
Tiếp đến thời kỳ mà mua
bán bất cứ thứ gì cũng phải có tem phiếu, hoặc phân phối không theo một lô-gích
nào và cả thường được nhớ dưới cái tên “thời bao cấp” thì mì chính đã khá phổ
biến trong dân chúng miền Bắc miền Nam.. “Bắt phanh trần phải phanh
trần/cho may ô mới được phần may ô” (nhại Kiều “Bắt phong trần
phải phong trần/cho thanh cao mới được phần thanh cao”.
Trong những thùng quà
gửi từ nước ngoài về mà có nửa ký hoặc một ký mì chính, lại là mì chính
cánh (mì chính kết tinh nguyên chất), thì còn quý hơn vàng ! Những
người lớn tuổi còn nhớ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ khi mà tất cả nam
giới đều phải ra mặt trận, thành thị thôn quê trong các cơ quan chỉ còn lại
“các thím” là số đông thì nam giới hiếm và quí như thế nào nên được coi là “mì
chính cánh” là vì thế.
Các du học sinh, thực
tập sinh, thậm chí nghiên cứu sinh các loại được gửi đi học ở các nước Đông Âu
đều thông thạo các cửa hàng nào có bán mì chính (glutamate) và thông báo cho
nhau rất nhanh. Chậm chân loáng cái là hết. Mà mì chính lại chỉ bán
dưới dạng gói có lẽ chỉ 2-3g/gói. Thế là anh nào may mắn gặp “cơ hội” thì ít ra
cũng phải làm 10-15 gói cho nó…bõ. Người viết bài này cũng đã nhiều phen lăn
lóc khắp các Centrum hay Kaufhaus ( cách gọi tên các siêu tthị lớn hay nhỏ ở
Đông Đức trước đây) để thu gom những gói glutamat ấy. Chả bù với ở Tây Âu như ở
Paris ngườ ta có thể mua ở các hàng bán đồ thực phẩm châu Á như Thanh Bình
(Quận 5), Tang Freres (Quận 13) hàng mấy ký (mì chính) GMS cũng được !
Mì chính đã xâm nhập vào
thói quen ăn uống của dân miền Bắc, và đồng hành cùng chúng ta đến khắp nơi
khắp chốn. Như đã nói ở trên xưa kia mì chính chỉ xuất hiện trong các bữa tiệc,
mâm cơm sang trọng ngày giỗ tết ở một số gia đình khá giả. Nay vì
thịt cá là đồ hiếm nên nếu có mì chính thì người ta thay thế cho thịt cá. Phải
nói mì chính đã góp phần làm cho bữa cơm gia đình dễ nuốt hơn trong thời gian
đó.
Mì chính trở thành một
món quà tặng quý hiếm của những ai đi công tác nước ngoài trở về : chị thì một
ít mì chính cánh, anh thì một cái bút bi (có người sang trọng gọi là bút nguyên
tử).
Mì chính còn được cấp
cho cán bộ, bộ đội cùng với những gói lương khô khi đi công tác chiến trường
xa.
Nhiều người trở
nên nghiện mì chính đi ăn phở tiệm cũng dắt theo lọ mì chính đựng trong cái lọ
pênixilin con con. Khi tô phở được mang tới người ta lấy ngay cái tăm trong lọ
và gẩy dăm ba cánh mì chính vào thì ngay “phở không người lái” cũng dùng tạm
được. Không chỉ người Việt trong nước nghiện mì chính mà khi ra nước ngoài họ
cũng vẫn không bỏ được cái khẩu vị đó. Trong blog Hiệu Minh có kể là khi còn du
học ở Ba Lan các sinh viên nước bạn lấy làm lạ vì làm sao mà du học sinh Việt
Nam lại thờ ơ với các em “chân dài” như thế. Du học sinh ở Đông Âu thời bao cấp
anh nào chả thuộc lõm bõm những câu thơ để than thở cái cảnh “cơm treo mèo
nhịn” này ! “Mắt xanh da trắng lông nâu/không nhìn thì…tiếc, nhìn lâu
thì …thèm”. Các bạn quốc tế theo dõi và kháo nhau bọn Việt Nam nó có
loại thuốc cai sex (?), theo ngôn ngữ bây giờ có thể gọi nó có tác dụng kháng
viagra chẳng hạn thế. Chả là vì nhiều sinh viên quốc tế thấy ở nhà ăn các du
học sinh VN giở cái lọ con tí và gẩy một ít bột trăng trắng vào bát hay dĩa
thức ăn rồi mới ăn. Và quả nhiên sinh viên VN cố lên gân nghiêm túc không giám
yêu con gái bản xứ. Thực ra anh em du học sinh muốn cải thiện xuất ăn đạm bạc
bằng mì chính và cũng chỉ sợ…”sứ” mà thôi. Vì mấy câu “thơ” trên còn một khổ
nữa là “nhìn rồi lại muốn…tòm tem/sứ mà biết được thì em xin về (nước)” .
xxx
Mì chính thực ra không
có hại cho sức khỏe. Đã có rất nhiều hội nghị quốc tế kể từ 1950 đến nay để
đánh giá về tính an toàn và liều xử dụng an toàn của mì chính. Người ta mới chỉ
thống nhất mì chính là phụ gia an toàn khi chế biến thức ăn, nhưng chưa thống
nhất được liều lượng an toàn là bao nhiêu cho một kilo gam thể trọng. Thực ra
cũng chả cần thiết vì cũng như các chất phụ gia khác có ai nêm nếm được quá
nhiều đâu. Ngọt quá thì thành chè, mặn quá chua quá thì không nuốt nổi. Còn cay
quá thì sao rồi ai cũng biết kể cả trường hợp “…không ngậm ớt thế mà cay!”
Có điều người ta đã
thống nhất không nên cho trẻ em dưới 6 tháng ăn mì chính. Xin nhắc các bà mẹ
trẻ chớ quấy bột cho con mình với mì chính nhé.
Có người lại cho là mì
chính, chính là glutamat sodium, có tác dụng giúp trí nhớ. Trước đây có loại
thuốc Glutaminol-B6 mà học sinh sinh viên hay mua uống trong mùa thi. Nay thì
không còn bán trên thị trường vì đã không mang lại kết quả mong muốn. Thời bao
cấp tôi từng thấy có bà người quen mỗi ngày súc vài muỗng mì chính uống để cho
bổ não !!!
Cũng phải nói cho đúng
là không phải ai cũng thích mì chính. Một số nhà hàng bên Âu châu ghi rõ trong
thực đơn của cửa hàng “Thức ăn không có glutamat (mì chính)” để yên lòng khách.
Tại vì có một số người khi ăn món gì có mì chính lập tức thấy váng đầu, mặt mũi
đỏ bừng rất khó chịu. Tên “hội chứng tiệm ăn Trung quốc” đã được đặt ra để gọi
chứng này. May thay chứng này ít xảy ra ở châu Á nhưng không phải là không có.
Mình có người thân sau vài lần thấy khó chịu như vậy mới biết là đang bị hội
chứng hiếm gặp 1/50000 này tại châu Á.
BÀI CÓ LIÊN QUAN
Em cảm ơn thầy về bài viết này ạ! Đọc bài này làm em nhớ tới ngày còn nhỏ, khi đó là những năm 1996, hi đó em được 5 tuổi, một ngày phải mấy lần lấy bột ngọt ăn không. Sau đó bọ me la cho hoài em mới bỏ. Đến bây giờ thì ăn không lại thấy khó chịu, không còn thích thú như trước nữa thầy ạ. :)
Trả lờiXóa