11. Hỏi : Đường
glucose
có vai trò quan trọng gì đối với
cơ thể ?
Trả
lời : Đường glucose là năng lượng thiết yếu cho hoạt động tế
bào cơ thể. Glucose có nguồn gốc từ thức
ăn hàng ngày và một phần do gan tạo ra. Trong cơ thể glucose vận chuyển từ nơi
này đến nơi kia thông qua vai trò của Đường Huyết (ĐH). ĐH ở người bình thường
giao động từ 0,80 – 1,20g/lít khi ta chưa ăn gì.
Khi
tới thận glucose được lọc lại để cơ thể sử dụng cho các hoạt động chuyển hoá
khác. Mức glucose tối đa trong máu mà thận có thể lọc được là 1,80g/lít, quá 1,80g
thì glucose sẽ xuất hiện trong nước tiểu tức là bị bệnh đái tháo đường. Người
ta bảo ngưỡng lọc của thận đối với glucose
là 1,80g/lít hay 180mg%.
12. Hỏi : Làm thế nào
mà ĐH ít thay đổi như vậy ?
Trả
lời : Sở dĩ ĐH ít thay đổi do có một hệ thống giúp cơ thể ổn
định nó : làm tăng lên khi mức glucose trong máu xuống thấp và giảm bớt khi mức
glucose trong máu quá cao. Hệ thống này rất phức tạp, nhưng liên quan đến đái
tháo đường thì ta chỉ cần chú ý đến insulin.
13. Hỏi : Insulin là gì ?
Trả lời : Insulin là một chất kích thích (nội tiết tố), còn gọi là hócmôn, do tuyến tuỵ (“pancreas” lá mía) nằm sau dạ dày (bao tử) tiết ra có chức năng điều hoà chuyển hoá đường glucose. Tất cả các tế bào, trừ tế bào gan và hồng cầu đều cần có insulin mới đi vào trong tế bào được. Insulin được ví như cái chìa khoá, dùng để mở cửa tế bào cho glucose thâm nhập vào bên trong.
Trả lời : Insulin là một chất kích thích (nội tiết tố), còn gọi là hócmôn, do tuyến tuỵ (“pancreas” lá mía) nằm sau dạ dày (bao tử) tiết ra có chức năng điều hoà chuyển hoá đường glucose. Tất cả các tế bào, trừ tế bào gan và hồng cầu đều cần có insulin mới đi vào trong tế bào được. Insulin được ví như cái chìa khoá, dùng để mở cửa tế bào cho glucose thâm nhập vào bên trong.
14. Hỏi : Cơ chế nào
chỉ huy sự tiết insulin ?
Trả
lời : Insulin tiết nhiều hay ít phụ thuộc vào chính nồng độ ĐH.
Sau bữa ăn glucose do thức ăn vừa đem tới làm ĐH tăng cao. Chính sự tăng cao ĐH
này kích thích tuỵ tiết ra nhiều insulin để hạ mức ĐH xuống làm cho ĐH ổn định
trở lại. Còn ngoài các bữa ăn ĐH có xu
hướng xuống thấp, điều kiện này không kích thích sự tiết insulin.
15. Hỏi : Sự tiết
insulin có ảnh hưởng như thế nào đến việc phát sinh bệnh đái tháo đường ?
Trả
lời : Y học đã xác định khi tuỵ bị thương tổn insulin tiết ít
dần và tới một lúc nào ngưng không tiết được nữa. ĐH tăng sau khi ăn như trong
điều kiện bình thường nay không còn insulin để hạn chế sẽ tăng lên quá mức. Sự tăng ĐH quá mức làm cho thận không lọc
được glucose nên glucose sẽ tràn vào trong nước tiểu và gây ra bệnh đái tháo
đường. Trong đái tháo đường típ 1 hoàn toàn không còn insulin ; trong đái
tháo đường típ 2 insulin còn tiết rất ít hoặc insulin có nhưng không đủ chất
lượng để phát huy tác dụng sinh học.
16. Hỏi : Có mấy loại đái tháo đường ?
Trả lời : Có lẽ
nên dùng từ (bệnh) thể, (bệnh) típ (kiểu) khi phân loại đái tháo đường thì đúng hơn. Dùng từ “loại”
dễ gây hiểu lầm là bệnh nặng hay nhẹ; thí dụ cho rằng đái tháo đường típ 2 nhẹ
hơn đái tháo đường típ 1 là không đúng. Y học dùng từ thể, típ chỉ để mô tả biểu hiện của bệnh
theo một quy ước chuyên môn thống nhất mà thôi.
Người
ta chia thành các thể đái tháo đường như sau :
Đái
tháo đường típ 1
Đái
tháo đường típ 2
Đái
tháo đường khi mang thai (đái tháo đường thai kỳ ĐTĐTK)
Đái
tháo đường do các nguyên nhân khác ít gặp : do ngộ độc, do một số bệnh nội tiết
(tuyến yên, tuyến thượng thận) v…v
17.Hỏi : ĐTĐ típ 1 và
típ 2 là gì ? Khác nhau thế nào ?
Trả
lời :
ĐTĐ
típ 1, chiếm 5-10% tổng số bệnh nhân ĐTĐ
thường gặp ở người trẻ dưới 30 tuổi, hoặc trẻ hơn. Có thể gặp ngay cả ở trẻ
em dưới 10 tuổi, nên còn gọi là đái tháo
đường thiếu niên. ĐTĐ típ 1 thường có
đầy đủ các triệu chứng của bệnh.
ĐTĐ
típ 2, chiếm 85-95% tổng số bệnh nhân ĐTĐ,
thường gặp ở tuổi 30 trở lên, nên cũng gọi là đái tháo đường người lớn. ĐTĐ típ
2 có thể không có triệu chứng, vì bệnh diễn biến âm thầm đã lâu ngày, hoặc
triệu chứng không nổi bật nên bệnh nhân không chú ý hoặc đã quên mất.
- Hỏi : Giới hạn tuổi có phải là tiêu chí chắc chắn để phân
biệt ĐTĐ típ 1 với típ 2 không ?
Trả
lời : Giới hạn tuổi đúng với đa số các trường hợp. Nhưng ngày
nay ĐTĐ típ 2 có thể gặp cả ở trẻ em, người trẻ tuổi đặc biệt khi có béo phì.
Ngược lại trong một số trường hợp người lớn tuổi vẫn có thể bị ĐTĐ típ 1.
Đối
với các trường hợp này bác sĩ phải theo dõi và có khi cần làm một số xét nghiệm
đặc biệt mới xác định chính xác được.
- Hỏi : Thế nào là ĐTĐ phụ thuộc insulin và ĐTĐ không phụ
thuộc insulin ?
Trả
lời : ĐTĐ típ 1 bắt buộc phải chích insulin hàng ngày, nếu
không bệnh nhân sẽ mắc một biến chứng chết người do nhiễm (độc) acid-xêtôn khi
ĐH quá cao. Đại đa số ĐTĐ típ 2 chỉ cần dùng thuốc uống làm giảm ĐH. Vì thế
trước đây người ta gọi ĐTĐ típ 1 là ĐTĐ
phụ thuộc insulin và ĐTĐ típ 2 là ĐTĐ
không phụ thuộc insulin.
Nhưng
ngày nay có rất nhiều trường hợp ĐTĐ típ 2, mà đến một lúc nào đó, dùng thuốc
uống giảm ĐH không còn hiệu quả mặc dù đã
cho liều cao và phối hợp nhiều loại thuốc. Khi đó muốn giảm mức ĐH người ta
cũng phải cho bệnh nhân chích insulin.
Vì
thế trong xếp loại mới nhất của Liên Đoàn Đái Tháo Đường Quốc Tế và Tổ Chức Y
Tế Thế Giới người ta không dùng cụm từ ĐTĐ
phụ thuộc và không phụ thuộc insulin nữa. Từ nay tên gọi
ĐTĐ típ 1 thay thế cho ĐTĐ phụ thuộc insulin, ĐTĐ típ 2 thay thế cho ĐTĐ không phụ
thuộc insulin.
Xem
thêm bài Tự theo dõi đường huyết trê người
đái tháo đường trong sách “Đái tháo đường làgì ?”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét