PHẠM XUÂN HY (Paris)
Anh Phạm Xuân Hy là người rất thông thạo cổ văn
Hán Nôm. Anh đã
dày công khảo cứu về bộ truyện Thủy
Hử mà chúng ta đã đọc
ở nhiều nơi cũng như đã xem trên
các bộ phim xi nê.
Trong khảo cứu này anh cung cấp cho chúng ta những điều mà
người ta còn chưa thống nhất về
cái kết cục của các vị anh hùng
mà chúng ta đã vô cùng yêu mến.Xin
mời các bạn cùng xem
Tôi đọc truyện Thủy Hử đã lâu lắm
rồi, từ hồi lên chin mười tuổi gì đó, không nhớ rõ nữa. Sau này , tôi lại có dịp
đọc lại một vài lần nữa.Nhưng bây giờ già rồi.Trí nhớ kém cỏi.Chỗ còn chỗ mất.
Lờ mờ như khói, lãng đãng như sương.Vào
những tháng mùa đông hiu hắt. Những chiều
tàn lão bệnh cô liêu. Buồn vô hạn. Lại giở ra đọc.
Cũng may, xóm tôi có mấy cụ già đồng
tuế, đồng bệnh với nhau. Có cụ mắt mũi kèm
nhèm, đi lại siêu vẹo như nhẩy bebop. Có cụ thấp bé, tóc hoa râm, lưng còng phải
cầm cái dù làm gậy chống. Có cụ lọm khọm mà diện mạo hồng hào như trẻ thơ. Lại có cụ khô khan, xương xẩu, im lìm như que
củi.
Tựu chung, niên linh đều đã bước
vào cõi “trung thọ中壽” cả
rồi.
Tuổi già đa bệnh. Sờ đâu cũng thấy
lạnh lùng. Các cụ bèn rủ nhau ra quán ngồi nhâm nhi tách cà phê, hay uống một lon bia, kể lại truyện
cổ tích “Saigon ngày tháng cũ”, cho ấm
lòng đất trích quê người.
Câu chuyện của các cụ chẳng bao
giờ có đề tài cố định.
Thường là, nhắc đến những địa danh,
những phong cảnh, những nhân vật, những bằng hữu một thời nơi cố quận ngày xưa.Bây
giờ nhiều người đá đã xanh rêu, đi vào cát bụi.
Tiếng truyện trò của các cụ nghe thì
thầm trầm bổng, lao sao cao thấp.Lúc văng vẳng mơ hồ.Lúc xa xôi lãng đãng. Nghe thống
thiết như tiếng đàn Tỳ Bà của người kỹ nữ già trên bến Tầm Dương, thuật lại cuộc đời trôi nổi của mình lúc còn
trẻ đẹp, đi hát ở kinh đô Trường An, phồn hoa nhộn nhịp.Đến nay già lão thì bị
người đời hắt hủi.
Trong “Tỳ Bà Hành”, Bạch Cư Dị đã
từng chia xẻ vận mệnh hẩm hiu của ông
cùng với người kỹ nữ bị đời bỏ rơi này,
bằng những câu như :
同是天涯淪落人
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Cùng một
lứa bên trời lận đận
Hay câu :
座中泣下谁最多,
Tọa trung khấp
hạ thùy tối đa
Giang Châu
Tư Mã thanh sam thấp
Lệ ai chan chứa hơn người,
Mảnh gương Tư Mã đẫm mầu áo xanh.
Càng thêm day dửt mủi lòng.
Hỏi sao. Thì chỉ nghe có tiếng sụt
sịt “hi...hu”. Mang mang đẫm lệ Tầm Dương.
Té ra, hồn chàng Tư Mã Áo Xanh hiện
về. Chim Quyên nhớ nước.
Làm các cụ liên tưởng đến Bến Bạch
Đằng, đến Bến Thủ Thiêm của Sài Gòn hoa lệ cũ.
Ngày xưa nơi đây.
Cũng trên bến dưới thuyền. Ca lâu
tửu quán.Trai thanh gái lịch, và những nàng ca nữ xinh đẹp nổi tiếng, tụ hội một
thời.
Rồi nhớ đến tên những con đường : Tự Do, Nguyễn Huệ.
Lê Lợi, Lê Thánh Tôn, Trần hưng Đạo...Những nơi đã in mòn biết bao nhiêu gót giầy
tuổi trẻ.
Và tên các rạp ciné nằm trên các con đường này :
Rex.Eden.Vĩnh Lợi.Đại Nam.Majectic, bỗng lần lượt trở về trong trí nhớ của các
cụ.Cái thuở mà tay chân còn vụng về, quờ quạng, vội vã tìm nhau khi đèn trong rạp
vừa phụt tắt.
Chốn đây
hoa xuân chưa gặp bướm trần gian.(Văn Cao-Thiên Thai)
Các cụ cứ thế, vòng vo kể lể. / Cho
đến lúc hồn chàng Tư Mã Áo Xanh “ thăng”. Ra đi.
Thì bỗng có cụ rẽ đề tài sang ngõ
khác. Kể truyện Tầu : Tam Quốc, Thủy Hử.
***
Thủy Hử Truyện vốn là một tác phẩm chương hồi tiểu thuyết nổi
tiếng trong văn học cổ điển Trung Hoa, đã được
dịch ra nhiều tiếng trên thế giới, và tại Việt Nam, chúng ta cũng có nhiều
bản dịch khác nhau.
Tôi đã từng đọc bản dịch của La
Thần,và của Á Nam Trần Tuấn Khải, của Tử Vi Lang sau này. Bản dịch của Tử Vi
Lang vẫn là bản dịch mà tôi đắc ý.
Những dịch giả này thường dựa vào
bản “Thủy Hử Truyện” 70 hồi, bản đã được Kim Thanh Thán, một nhà phê bình văn học
nổi tiếng đời Thanh đã san cải và có
bình bàn ở cuối mỗi hồi.
Thủy Hử bản 70, từ hồi thứ nhất, thuật truyện Hồng Thái Úy mở
cửa động “Phục Ma Chi Điện 伏魔之殿” thả 72 ngôi Địa Sát và 36 ngôi Thiên Cương, xuống trần đầu thai trở thành 108 hảo hán Lương Sơn Bạc.
Hồi chót, thuật lại cơn ác mộng của
Lư Tuấn Nghĩa mơ thấy 108 hảo hán Lương
Sơn Bạc bị triều đình giết sạch, chỉ thấy giữa trời nổi lên mấy chữ:
天下太平 / Thiên
Hạ Thái Bình thì truyện
kết thúc.
Nhà văn Thi Nại Am đã dựa vào bối
cảnh lịch sử Trung Quốc, viết truyện Tống Giang lãnh đạo nông dân các vùng Hà Bắc,
Sơn Đông đứng lên khởi nghĩa chống lại triều đình cuối thời nhà Bắc Tống.Đúng
ra là vào thời vua Tống Huy Tông, niên hiệu Tuyên Hòa.
Câu truyện Tống Gianh khởi nghĩa
như sau:
-Tháng 12 năm Tuyên Hòa nguyên
niên, tức năm 1119, vua Tống Huy Tông từng xuống chiếu “chiêu an tên tướng cướp
Tống Giang”, Việc nhà vua phải xuống chiếu chiêu an, chứng tỏ rằng triều đình
nhà Tống đã bị quân khởi nghĩa của Tống Giang đả kích,tấn công nặng nề trầm trọng.
Lúc Tống Giang chưa được chiêu
an, quân khởi nghĩa liên tục chiến đấu, xuất nhập, ẩn hiện ở các châu : Thanh,
Tế, Bộc, Huy, Nghi,Hải, Sở...
-Đến năm sau, tức năm Tuyên Hòa
nhị niên,tức năm 1120, quân của Tống Giang từ Kinh Đông Tây Lộ tiến sang Đông Lộ.
Viên Tri Châu Hào Châu là Hầu Mông phải thượng sớ lên triều đình tấu rõ là lực
lượng quan quân tuy có đến mấy vạn, nhưng không có ai dám trực diện chống trả ,
Hầu Mông cũng đề nghị với triều đình nên
chiêu an Tống Giang, dùng Tống Giang đi
trấn áp cuộc nổi dậy của Phương Lạp.
Vua Tống Huy Tông bèn bổ nhiệm Hầu
Mông làm tri Phủ Đông Bình, nhưng Hầu Mông chưa kịp đến nhậm chức thì bị bệnh
qua đời.
Vì lúc bấy giờ quân khởi nghĩa chủ yếu họat động ở vùng Huy
Châu, nên tương truyền là nghĩa quân của Tống Giang trú đóng ở Lương Sơn Bạc.
-Đến tháng 11cùng năm, Tống triều
phái Tri Châu Hấp Châu là Tăng Hiếu Ôn
làm Tri Châu Thanh Châu, đi trước trấn áp quân của Tống Giang, nhưng vì
quân của Phương Lạp phát triển mạnh mẽ, nên ít lâu sau đó triều đình lại đổi
Tăng Hiếu Ôn làm Tri Châu Hàng Châu, Mục Châu.
Tống Giang dời quân xuống phía
nam Nghi Châu, khi quân đi từ vùng phía
nam Thanh Châu đến Nghi Châu, rồi mượn đường đi với Tri Châu là Tưởng Viên,
nhưng bị Tưởng Viên tập kích đánh úp, quân chết khá nhiều.
-Năm Tuyên Hòa tam niên, tức năm
1121, Tống Giang kéo quân từ Nghi Châu tiến đánh quan quân ở Hòai Dương, Tống
triều khiến quân binh, tướng lãnh tiến
hành chặn và cắt đứt đường của Tống
Giang. Tống Giang phải chuyển hướng đi về phía đông bắc, rồi lấy thuyền vượt biển
tiến vào Thuật Dương Huyện, giao chiến với viên Huyện Úy là Vương Sư Tâm.Quân của
Tống Giang chiến đấu mãnh liệt, chuyển chiến hàng chục trận, quân triều đình
không dám chống cự.
-Tháng 12, khi Tống Giang từ biên
giới hai châu là Hải Châu và Sở Châu xuất quân, thì Tống Huy Tông ra lệnh cho Tri Châu Hải Châu là Trương Thúc
Dạ vừa ra sức trấn áp vừa dụ hàng Tống Giang. Trương Thúc Dạ cho trinh sát dò
xét, biết là Tống Giang mới đọat được mười
chiếc thuyền lớn, chở đày hóa vật. Trương Thúc Dạ cho quân mai phục, dụ cho
quân Tống Giang tác chiến ở trên bờ sông, rồi thừa cơ phóng hỏa đốt hết thuyền
của Tống Giang. Quân của Tống Gian bị quân mai phục của Trương Thúc Dạ vây chặt,
đánh tan tành.
Tống Giang hòan tòan bị đại bại,
không làm gì được hơn, đành phải xin đầu hàng với Trương Thúc Dạ. Nghĩa quân
người nào sống sót, thóat được, tiếp tục cuộc chiến đấu.
***
Cuộc nổi dậy của Tống Giang rất là ngắn ngủi, từ cuối năm Tuyên Hòa
nguyên niên, tức năm 1119, đến đầu năm Tuyên Hòa tam niên,tức năm 1121, đời Tống
Huy Tông, tổng cộng bất quá hơn một năm,
chỉ được chính sử nhắc đến một cách rất sơ sài, lác đác.Chỗ nầy dăm chữ,
chỗ kia vài hàng.
Chẳng hạn, trong Tống Sử chỉ ghi
rằng :
” Bọn cướp ở Hoài Nam là Tống
Giang xâm phạm quan quân ở Hòai Dương, lại tấn công Kinh Đông, Giang Bắc, tiến
nhập vào địa phận Hải Châu đất Sở, nhà vua hạ lệnh cho Tri Châu Trương Thúc Dạ
chiêu hàng”
Nên đối với kết cục của đội ngũ lãnh đạo cuộc nổi
dậy của Tống Giang, trở nên một nghi án, không rõ ràng, và có nhiều truyền thuyết bất nhất khác nhau, bàn cãi phân
vân về vấn đề này.Đại khái, có thuyết cho rằng :
1- Tống Giang và đồng bọn bị cầm tù.
Sách « Đông Đô Sự Lược -Tống Huy Tông” chép
rằng rằng :
Tháng hai năm Tuyên Hòa thứ ba, bọn giặc Phương Lạp
vây hãm Sở Châu.Bọn giặc Tống Giang vây hãm Hòai Dương Quân, lại xâm nhập Đông
Kinh, Hà Bắc, tiến vào Hải Châu, Sở Châu...Đến tháng năm năm binh thân, Tống
Giang bị cầm tù”
2-Tống Giang và đồng bọn thua trận bỏ trốn.
Sách “Văn Định Tập” ghi :
Ông, (tức Trương Thúc Dạ), húy là Sư Tâm, tự là Dữ
Đạo...đậu Tiến Sĩ năm Chính Hòa Bát niên, phong Công lang, Huyện Úy Hải Châu, Thuật Dương. Tống Giang là tên cướp
ở Hà Bắc, tung hòanh không ai dám kháng cự, rồi chuyển sang cướp Đông Kinh, Thuật
Dương, Ông đem quân đánh bại Tống Giang trên bờ sông, bọn Tống Giang phải chậy trốn .
3-Tống
Giang và đồng bọn được chiêu an
Sách “Đông Đô Sự Lược-Hầu Mông truyện” ghi:
Tống Giang cướp bóc vùng Đông Kinh, Hầu Mông dâng kế
đánh:Tống Giang cùng với 36 người, hòanh hành vùng Hà Sóc, Đông Kinh, quan quân
có đến mấy vạn, nhưng không ai dám khánh cự.Hắn tất có tài hơn người, chi bằng
xá cho hắn rồi chiêu hàng, sai đi thảo phạt bọ giặc Phương Lập, bình định cái
lọan ở phía đông nam đã.
Sách “Tục Tống Biên Tư Trị Thông Giám” viết :
Tháng 12 năm Tuyên Hòa nhị niên, tức năm 1120, bọn
cướp Tống Giang xâm phạm Hoài Dương cùng Kinh Tây, khi đến biên giới Hải Châu,
bị Tri Châu Hải Châu là Trương Thúc Dạ, bầy mưu bắt được và xin đầy hàng.
4-Tống
Giang và đồng bọn đầu hàng rồi bị giết
Sách “Di Kiên Chí-Sái Thị Lang” của Hồng Mại viết :
Năm Tuyên Hòa thất niên, Hộ Bộ Thị Lang là Sái Cư
Hậu bị bệnh mụn giọt mọc ở sau lưng, được ít lâu thì chết, người vợ xúc động
khóc chồng rằng : Thị Lang trước đây còn cầm quân ở Huy Thành, có bọn cướp Lương Sơn Bạc năm trăm người,
nhân xin đầu hàng, bị giết, ta mấy lần can không nghe...
5-Tống Giang và đồng bọn đầu hàng, đi trấn áp
cuộc nổi dậy của Phương Lạp.
Sách “Tam Triều Bắc Minh Hội Biên” chép:
Tuyên Hòa nhị niênPhương Lập làm phản ở Mục Châu,
vây hãm các châu Ôn, Đài, Vụ, Hàngkhiến cho vùng nam bị chấn động, dùng Tuyên
Phủ Sứ vùng Giang, Chiết đem Lưu Diên
Khánh, Lưu Thế Quang, Tống Giang cầm hơn hai chục vạn quân đi thảo phạt...
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét