Translate

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

Singapore 92 năm trước (1922)




4 giờ sáng ngày 15 Mars, tàu dời bến Sài Gòn chạy về Singapore (Tân Gia Ba). Tự Sài Gòn ra đến bể có sáu chục cây-lô-mét tàu đi khúc khuỷu theo con sông Sài Gòn; đến 8 giờ sáng thì vừa tới Cap Saint Jacques (Vũng Tàu), địa thế chỗ này cũng hiểm trở và cảnh trí cũng ngoạn mục: hai bên núi bao bọc như cái tay ngai, giữa một cái vũng to, nước nửa xanh, nửa đỏ, nước đỏ là nước sông chảy ra, nước xanh là nước bể dồn vào; ngoài xa là bể khơi man mác. Trên núi trông xa xa thấy những nhà lầu trắng xoá ở giữa đám cây xanh um tùm: đó là nhà biệt thự (villas) của các quý quan mùa nóng ra nghỉ mát, vì nơi Vũng Tàu này chính là một sở nghỉ hè như Đồ Sơn, Sầm Sơn ở Bắc Kỳ vậy. Trong Nam Kỳ nói đi chơi “Ô Cấp” (Au Cap) cũng là một cách phong lưu lịch sự như ngoài Bắc nói đi tắm Đồ Sơn vậy.
Ô Cấp không những là một nơi nghỉ chơi, lại là một cái chiến cảng để giữ cửa Sài Gòn và cả miền hải phận Nam Kỳ, và là nơi sở tại của một quan đại lý thuộc về tỉnh Bà Rịa. Nên ngoài những nhà mát của các quý quan, lại còn những toà sở khác nhiều lắm, và thường khi có tàu chiến đậu. Đi ngoài trông vào, không khác gì một nơi tỉnh thành lớn.
Tự Sài Gòn ra Tân Gia Ba có đi ngang qua quần đảo Côn Lôn (Poulo Condore) nhưng đi tận ngoài xa, không trông rõ.
Mới ở Vũng Tàu ra, bể hơi có sóng gió, lại say sóng mất quá nửa ngày nữa, nhưng ra quá bên ngoài thời yên ngay, và cho đến tận Singapore đều được bình tĩnh như thường.
8 giờ sáng ngày 17 Mars, tàu tới Singapore. Đáng lẽ tới từ 4 giờ đêm, vì tự Sài Gòn đến Singapore đi có hai ngày tròn, nhưng nghe đâu người Anh có lệ không cho tàu ngoại quốc xuất nhập đương đêm. Cho nên tàu đến trước cửaSingapore tự nửa đêm mà còn phải đậu ở ngoài xa, đến sáng rõ mới quay mũi vào bến.
Mặt trời mới mọc, trông vào bến Singapore, không cảnh gì đẹp bằng, như một bức tranh sơn thủy vậy. Lần này mới được trông thấy một nơi hải cảng là lần thứ nhất, thật là một cái cảnh tượng to tát. Cửa Hải Phòng, cửa Sài Gòn của ta kể cũng khá to, nhưng sánh với cửa Singapore này còn kém xa nhiều. Bến liền nhau với bể, chạy dài đến mấy nghìn thước, tàu đỗ không biết cơ man nào mà kể, tàu của khắp các nước đi tự Á Đông sang Ấn Độ và Âu Tây đều phải qua đấy.
Cửa Singapore này là đặt ở trên một cái đảo ở cuối bán đảo Malacca, ngay đầu eo bể Malacca, địa thế thật là tiện lợi cho đường buôn bán, và cũng tiện lợi cho sự quân bị. Người Anh ở Á Đông, phía trên giữ được cửa Hồng Kông (Hương Cảng), phía dưới giữ cửa Singapore, thật là chiếm được hai nơi then chốt ở cõi Á Đông này, địa thế hiểm yếu không đâu bằng. Mà hai nơi ấy trước kia là hai cái đảo nhỏ cùng tịch, bỏ hoang không ai đi đến bao giờ; nhất đán vào tay người Anh kinh doanh trong mấy chục năm, trở nên hai nơi hải cảng và thương phụ nhất nhì trong thế giới: cái nghị lực của giống người Anh cũng khả kinh vậy.
Bây giờ bao nhiêu tàu bể của các nước đi qua lại bên Á Đông này, tất phải do qua hai cửa Singapore và Hồng Kông; hai cửa ấy lại theo cái chế độ “tự do mậu dịch” của nước Anh, đồ hàng hoá các nước đem vào không phải thuế thương chánh, nên cái phong trào buôn bán thật là có vẻ phồn thịnh hơn các cửa bể khác nhiều.
Trước khi tàu ghé bến, phải đợi cho quan thầy thuốc Anh xuống khám xem hành khách có ai mắc bệnh truyền nhiễm không. Đến khi tới nơi, hành khách chưa được xuống vội, phải đợi cho quan cảnh sát lên khám giấy thông hành. Trong khi chiến tranh thì ai muốn xuống bến cũng phải trình giấy thông hành cả, nhưng bây giờ thì chỉ người nào đỗ hẳn ở Singapore mới phải trình giấy mà thôi; còn các hành khách khác xuống chơi vài ba bốn giờ rồi lại về tàu thời được tự do đi lại; lệ có khoan hơn trước nhiều.
Trên bến thấy mấy viên quan cảnh sát Anh và lính cảnh sát toàn là người Mã Lai và người Ấn Độ cả. Còn những phu chở hàng và mang đồ hành lý thì phần nhiều là người Tàu và người Mã Lai.
Vào đến trong phố thời nghiễm nhiên là một nơi đô hội của người Tàu, chẳng kém gì thành phố Chợ Lớn. Phố xá đông đúc, san sát những hiệu Khách cả, có mấy dãy phố toàn những nhà tửu lâu khách sạn, ngày đêm tấp nập những khách ăn chơi, người đi lại. Đi lại trong phố phường, có xe kéo và xe hơi, xe kéo người Khách kéo, xe hơi người Khách cầm máy. Đại để, công việc gì cũng là người Khách làm cả, từ bán cháo rong cho đến làm chủ hiệu, tựa hồ như người Anh mở mang đất này riêng cho người Tàu đến sinh lý, còn thổ dân là giống Mã Lai thời bị khu trục ra ngoài cái sinh hoạt giới tuyến vậy. Coi đó cũng đủ biết cái nghị lực của người Tàu, kể không kém gì người Anh vậy. Người Anh có cái tài sáng tạo kinh doanh, người Tàu có cái sức thừa hành lao động, người Anh là cái óc sắp đặt, người Tàu là cái tay làm lụng, hễ đâu có hai giống người ấy tất là nơi sinh hoạt phồn thịnh.
Singapore có thể chia ra hai phần: một phần là phố Khách, một phần là phố Tây; phố Tây cũng sầm uất bằng phố Khách mà lại có cái vẻ nguy nga hơn. Phố Tây ở Singapore này có khác phố Tây ở các nơi khác, nhất là khác các phố Tây của người Pháp ở, như trong các thành phố ta; người Pháp ở đâu thì những nhà lầu to lớn phần nhiều là các dinh thự công sở của Nhà nước; người Anh ở đâu thì những nhà lầu to lớn là các cửa hàng, các hội buôn, các công ty, các ngân hàng. Những hãng buôn của người Anh ở Singapore thật là những lâu đài vĩ đại, có khi chiếm từng dãy phố dài.
Ngoài các phố phường buôn bán, đến những nơi nhà ở riêng, làm theo lối “biệt thự” (villas) của người Anh, nhà xây ở chỗ đất cao, chung quanh vườn rộng, xe hơi chạy lùng khắp được. Những nhà ấy phần nhiều của người Anh, nhưng cũng có nhà của các chủ hiệu Khách lớn; ban ngày xuống phố làm việc, chiều tối về nhà riêng nghỉ.
Xe hơi ở Singapore, thật không biết cơ man nào mà kể, nào xe riêng, nào xe thuê, cả ngày chạy như mắc cửi. Vào đến Sài Gòn, thấy xe hơi chạy đường Catinat đã lấy làm nhiều, nhưng xe hơi ở Singapore lại còn nhiều hơn nữa, và ở Singapore đường phố nào cũng như đường Catinat hết thảy.
Ở trên tàu xuống, anh em đi dạo qua mấy phố gần bến, mỗi người đổi mấy đồng bạc Đông Pháp lấy tiền Singapoređể tiêu dùng cho dễ. Bạc Đông Pháp, nhất là bạc đồng, ở đây chuộng lắm; mỗi đồng bạc của ta, trừ tiền cáp còn được một đồng năm xu bạc Singapore; coi đó thời biết rằng bạc ta có giá trị, vì lệ thường đem tiền mình đi dùng ở xứ khác, chỉ có thiệt, không có lợi bao giờ.
Đi chơi vừa đến trưa, không trở về tàu ăn cơm, rủ nhau vào một hiệu cao lâu Khách, gọi là Shanghai Hôtel; cách bày biện tiếp đãi ở trong các cao lâu khách đây có ý lịch sự hơn các cao lâu ở Chợ Lớn nhiều. Khách trong cao lâu là người Quảng Đông cả; nhân trong bọn chúng tôi có quan tuần Vi thông tiếng Quảng Đông, nên nói năng giao thiệp cũng dễ. Người Khách không biết chúng tôi là người An Nam, vì trước khi xuống bến anh em đã nhất luật cải Âu phục cả. Họ hỏi có phải là khách Thượng Hải mới ở Mỹ về không. Chúng tôi cũng đáp rằng phải, và hiện nay đi du lịch sang nước Pháp. Coi đó thời biết rằng người Tàu hễ khác tỉnh thời không nhận biết được nhau nữa, vì ngôn ngữ bất đồng, người Quảng Đông với người Thượng Hải đối nhau cũng bớ ngớ như người khác nước vậy.
Người Khách ở Singapore chỉ có người Quảng Đông buôn bán to và người Phúc Kiến, Triều Châu làm các nghề nghiệp nhỏ; còn người Thượng Hải ít lắm; cho nên trong khi đi dạo chơi các phố Khách, người Khách nào cũng cho bọn chúng tôi là người Thượng Hải.
Ăn cơm xong, anh em thuê hai cái xe hơi để đi dạo quanh khắp tỉnh thành một lượt trước khi tàu chạy. Xe hơi chạy thuê ở đây nhiều và rẻ lắm: ở các đầu phố thường đỗ hàng chục cái, giá thuê giờ thứ nhất là ba đồng, giờ thứ nhì hai đồng, đi hai giờ thời chạy vòng quanh được thành phố Singapore một lượt, đi tự dưới bến, qua các phố Khách phố Tây, men các đồi cao su ở sau bến, vào xem vườn hoa, rồi lại quay về bến, vừa đúng ba giờ, xuống tàu nghỉ chơi một lúc thời tàu chạy.
 
Trích "Pháp du hành trình nhật ký" (Phạm Quỳnh)
xem thêm : http://vi.wikipedia.org/wiki/Singapore 

ÔNG THẦY CHỮA MẮT






Có một chị con gái cấm cung, đến thì mà chửa có chồng. Một hôm, ngồi buồn, tẩn mẩn, lấy quả chuối nhét vào lỗ hỏm. Chẳng may quả chuối gãy đôi, một nửa mắc ngẵng ở trong, không lấy ra được, bí tiểu tiện ! Mấy hôm chẳng dám ăn uống gì cả. Lo sợ quá, không biết làm sao được, mới nhỏ to nói thật sự tình với vú già rằng :

- Bây giờ tôi đã trót lỡ như thế, thì vú xem ai có cách gì chữa được, tìm hộ tôi.

- Có phải vậy, để tôi đi ra phố xem.

- Ừ, vú cố giúp tôi.

Vú già vâng lời ra đi.

Nguyên ở cách đấy mấy phố, có một ông thầy chữa mắt giỏi lắm, xưa nay đã có tiếng; trước cửa thường treo cái biển vẽ một con mắt. Chẳng may hôm ấy thằng người nhà đem biển treo ngược, hóa ra con mắt dọc.

Vú già kia đi đến đấy, trông thấy biển, chắc rằng nhà ông thầy mình đi tìm đấy rồi; mừng lắm, mới vào thưa rằng :

- Thưa thầy, cô tôi đau mấy hôm nay, không ăn không uống gì được. Cho tôi lại đón thầy, mời thầy đến chữa hộ.

Nói đau thôi, chứ cũng không có nói đau ở đâu, bởi vì bụng nghĩ rằng nói thế ông thầy tự khắc hiểu; mà ông thầy cũng tưởng cô nó đau mắt, cho nên mới hỏi rằng :

- Cha, chả ! đau đến nỗi không ăn không uống được kia à ? Thế thì nặng lắm ! Có khi phải đánh mới xong ! Vú cứ về trước đi, để tôi sắp đồ sắp thuốc, rồi tôi lại ngay.

Vú già về nói cho cô mừng. Một nhát, ông thầy đến. Cô ả thẹn, nằm ở trong buồng, đóng kín mít cửa; tối om. Lúc ông thầy vào, thấy tối, lại khen :

- Ừ được, kín thế này thì đỡ nắng, đỡ gió, và cũng không chói... Nào, đau thế nào cho tôi xem !

Cô ả giạng háng ra. Ông thầy lấy tay sờ, rồi kêu lên rằng :

- Chết chửa ! Ðau từ bao giờ mà sưng húp lên thế này ?... Sao lại không cho gọi tôi trước, để đến bây giờ mộng thịt lồi lên như thế này, mới cho gọi tôi ?... Giả thử để chậm một hôm nữa thì có trời chữa !

Vội vàng lấy gừng muối, thè lưỡi đánh mộng; thấy thối, lại kêu :

- Trời ơi ! thế nào mà để thối ra rồi mới cho gọi người ta ?

Cô ả gây gây buồn buồn, nhịn không được, bật cười mạnh quá, băng cả chuối và vãi cả đái ra.

Ông thầy thấy thế, tưởng rằng đánh mạnh quá, nổ con ngươi, vỡ nước ra; sợ lắm, ù té chạy mất. Hốt hơ, hốt hoảng về nhà bảo đầy tớ cất ngay biển đi, kẻo nó đến nó bắt đền thì chết. Ai hỏi xin thuốc cũng chối, không bán và không chữa cho ai nữa.

Cách ba hôm sau, cô ả cho vú già mang buồng cau lại tạ thầy.

Vú già đem cau đến, ông thầy tưởng nó đến bắt đền, vội vàng chối rằng :

- Không, nhà tôi có chữa chạy gì cho ai đâu ?

- Thưa thầy, thầy quên. Thầy mới lại chữa cho cô tôi hôm nọ, bây giờ cô tôi khỏi cả rồi, sai tôi đem cau lại tạ thầy đây mà !

Ông thầy bấy giờ mới chắc là nó đã khỏi thật; hỏi rằng :

- Thế à ? Khỏi cả rồi à ?...

- Vâng, cô tôi khỏi cả, như cũ rồi.

- Khỏi cả, như cũ rồi à ?...

- Vâng, cô tôi đã đi đái được rồi...

Ông thầy giật mình :

- Sao lại đi đái ?

- Phải, trước bí, không đi được, bây giờ nhờ thầy chữa khỏi, cô tôi...

Ông thầy giẫy nẫy người ra, mới nghĩ rằng :

- Thôi chết, l... rồi ! ! !

Vội vàng khạc nhổ, gọi lấy nước súc miệng váng cả nhà lên.


TIẾU LÂM VIỆT NAM

Quà của con gái




Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà màu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp giấy.
Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ vẫn mang hộp quà đến nói với cha: "Con tặng bố!". Người cha cảm thấy bối rối vì cơn giận dữ của mình tối hôm trước, nhưng rồi cơn giận dữ lại bùng lên khi ông mở ra, thấy cái hộp trống rỗng.
Ông mắng con gái. Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, thưa: "Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào hộp để tặng bố mà!".
Người cha giật mình. Ông vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ cầu xin con tha thứ.
Đứa con gái nhỏ, sau đấy không bao lâu, qua đời trong một tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn khư khư giữ cái hộp giấy bên mình, mỗi khi gặp chuyện nản lòng, ông lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nghĩ đến tình yêu mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014

ĐÊM GIÓ BOSTON



TRẦN THỊ KIM LAN



- Má ơi con không ngủ được "Con đâu có tính khóc mà nước mắt cứ chảy ra. Con nhớ Việt Nam quá. Con muốn làm người Việt. Ở đây mãi thành Mỹ mất!"
- Má ơi, má còn thức phải không?
- Ừ, ngủ đi con, mai còn đi học.
- Cho con qua phòng má nói chuyện chút nghe má? Đêm nay con không ngủ được má à.
- Thôi đi cậu, mới mười ba mười bốn tuổi bày đặt ngủ không được.
- Nghe má.
- Ừ, qua đi. ...
- Má!
- Gì con?
- Đêm nay gió quá!
- Ừ, gió Boston. Ngày trước khi đến đây học, vào mùa đông, đêm nằm nghe gió rít bên ngoài má sợ lắm.
- Nghe nó sao sao trong bụng mình má à.
- Má biết. Đó là cái cảm giác cô độc, thấy mình bị từ bỏ giữa muôn người, nghe mình nhỏ bé, bất lực trước thiên nhiên. Ngày rời Việt Nam trở qua đây, nhớ đến gió Boston má rùng mình.
- Đêm nay má sợ không?
- Không.
- Sao má chì vậy?
- Má tập.
- Tập sao má?
- Đổi cách suy nghĩ. Má nghĩ gió ngoài kia không làm gì mình cả. Mình ở trong nhà ấm áp, vậy là tốt rồi. Sợ nhiều thứ quá khó sống con à. Gió làm con không ngủ được phải không? Con định nói gì với má?
- Dạ chuyện học. Con muốn học thiệt giỏi. Giỏi hơn hết tụi nó. Giỏi tất cả mọi môn, luôn cả thể thao, âm nhạc. Như vậy người ta mới respect (tôn trọng) mình.
- Có tài thì được nể. Cái đó đúng. Má thấy con chăm học là được rồi. Tại sao phải lo cho vượt trội hơn bạn bè về mọi mặt. Mỗi người có một tài riêng con ạ.
- Má không biết. Tụi Mỹ nó kỳ lắm. Ở trường con thằng giỏi bắt thằng dở hầu hạ. Có một thằng thiệt giỏi bắt thằng Mark bạn con ôm sách cho nó từ lớp này qua lớp khác. Nó hất mặt bảo con cầm áo của nó, con ngó lơ bỏ đi, nó xúi tụi kia không chơi với con. Lúc chia nhóm học chung, con nín thở chờ, nhưng con biết không nhóm nào nhận con vô cả. Tụi nó không có trái tim má à. - Ấy chết, con đừng nói vậy. Con người ai cũng có tình cảm con à. Trẻ con chưa biết nhiều, đôi lúc ác. Con không nhớ hai anh em Jimmy để dành tiền cả năm để trả chi phí cho con đi chơi Disney World sao?
- Má không biết đâu má. Thằng Jimmy nó hiểu con, còn tụi này phải thắng nó mới phục, phải chửi thề thật bạo nó mới cho mình nhập bọn, nếu không mình đi đến đâu là chúng nó lảng lảng bỏ đi. Phần thì con không biết nói những chuyện tụi nó thích nghe như chuyện thể thao, ai đấu với ai, ai thua ai thắng, tại sao thắng. Còn chuyện sex thì tụi nó chê con là baby (con nít).
- Đến một chỗ lạ, thời gian đầu có khi phải chịu khổ như vậy con à. Dần dần mình mới biết cách đối phó. Để má vào trường con nói chuyện với cô giáo con về vụ chia nhóm.
- Thôi đừng, má. Tụi nó trả thù.
- Con an tâm. Để má lo. Con buồn lắm phải không?
- Không phải chỉ chuyện đó. Con nghĩ nhiều chuyện khác. Con kỳ lắm, má không hiểu nổi đâu.
- Con thử nói xem má hiểu không? Má hứa sẽ ráng hiểu.
- Con nghĩ tại sao con ở đây? Con là Mỹ hay là Việt? Ở trường thầy bảo phải tough (cứng rắn), không để ai hiếp đáp. Về nhà má dạy phải nhường nhịn. Nhiều lúc chỉ cần chửi thề lại với tụi nó là xong. Má dặn không được chửi thề. Con nhịn, về nhà đấm tay vào tường cho đỡ tức. Cả nước Mỹ đều chửi thề. Thầy con chửi thề. Sinh viên MIT (Học viện Công nghệ Massachusetts) chửi thề. Sao má cấm con? Con đâu có ham chửi. Nhưng mình làm thinh những lúc như thế không giống ai hết.
- Con không thích thì làm giống người ta làm gì? Chửi nghe kỳ quá con à. Có nhiều người không cần phải chửi thề mà có sao đâu.
- Má không biết. Khó nói quá.
- Ừ thì má không biết. Nhưng má cho con biết ý má. Trước giờ con cũng tin má nhiều điều. Con suy nghĩ ý con đi, rồi tùy lúc mà đối phó. Con còn lo gì nữa?
- Con nghĩ tại sao có con người? Học cho nhiều rồi chết, uổng công quá! Sống rồi chết, chẳng ra làm sao cả. It... It doesn't make sense, you know (Nó chẳng có nghĩa gì cả, má biết không). Xin lỗi má, má không cho nói tiếng Anh mà nó cứ vọt ra hoài. Con nói với má con kỳ lắm. Không biết con có sao không má?
- Con không sao cả. Có lẽ do hoàn cảnh riêng của mẹ con mình mà con ít vô tư hơn những đứa trẻ khác. Nhưng có thể mỗi đêm cũng có nhiều đứa trẻ, nhiều người lớn đều tự hỏi những câu như con hỏi: Ta là ai? Tại sao có sự sống, sự chết?
- Really? (Thật vậy hả má) Vậy là con không sao hả má? Thế mà con cứ tưởng một mình con nghĩ ra điều đó!
- Hồi còn nhỏ, trong đầu má lúc nào cũng có những câu hỏi tương tự. Má lại không có ai để nói, và cũng không dám nói với người lớn như con đang nói chuyện tự do với má như thế này, nên má cứ băn khoăn mãi. Cho đến khi, có một lần má đi một mình từ Pháp sang Ý bằng xe lửa. Xe lăn trên đường sắt rì rầm trong đêm. Má nhìn ra bên ngoài, trời tối om, khó khăn lắm mới thấy những ngôi nhà xa xa mờ ảo. Má chỉ mường tượng hai bên đường là những cánh đồng hoang, vì trong không khí thoang thoảng có mùi đất khô và cỏ úa. Má nhìn chung quanh, hành khách gật gù say ngủ. Nhìn thật kỹ những khuôn mặt hoàn toàn xa lạ. Xe lắc mạnh, một người giật mình, sửa bộ ngồi ngay ngắn. Má thèm gợi chuyện, hỏi ông ấy vài câu. Hỏi bằng hai thứ tiếng, ông ta đều lắc đầu. Má không biết tiếng nào khác hơn, đành ngồi im. Ông ta nhắm mắt lại ngủ tiếp. Má còn một mình, lại nhìn ra ngoài. Trời tối đen không một ánh sao. Bên trong, dưới ánh đèn mờ, những con người kia không biết má là ai. Trong một thoáng giây, má bỗng chợt thấy một chữ "không" to lớn hiện ra trong tâm trí, rồi chữ "nothingness", rồi chữ "néant". Giá mà má biết nhiều thứ tiếng thì sẽ còn nhiều chữ đồng nghĩa tiếp tục xuất hiện. Lúc đó má chợt hiểu: Ta không là ai cả khi không còn một liên hệ với người khác. Ta không là gì cả khi không một ai biết đến ta. Từ đó má không còn thắc mắc. Má chỉ cố hết sức trong khả năng mình gìn giữ tình liên hệ với bất cứ ai quen biết, trừ khi vì lý do nào đó má bị phủ nhận.
- "Phủ nhận" tiếng Anh là gì má?
- Ở đây má muốn dùng cả hai chữ "refuse" và "reject".
- Má nói tiếng Việt hay quá!
- Không đâu con. Má nói thường lắm. Nếu con nghe hay là vì tiếng Việt mình hay, má không biết nói sao cho dở được. Con khen mà có hiểu gì không?
- Dạ hiểu chút chút. Má nói nếu không ai biết mình thì mình buồn vì không có ai nói chuyện. Má thường dặn con phải hiểu bạn và giúp bạn hiểu mình, đừng để mất bạn.
- Con hiểu cũng kha khá. Má muốn khi nào con tự hỏi câu "Ta là ai?" thì con trả lời con là con của má, là học trò của thầy con, là bạn của bạn con, là người hàng xóm của hai ông bà bên cạnh... Tạm bằng lòng như vậy cho đến khi con lớn lên, con tìm được một câu trả lời nào thỏa đáng hơn. Con chịu không? Má chỉ biết có chừng đó.
- Dạ chịu, nhưng mà như vậy cũng còn buồn. Má không biết chứ đêm lễ Độc lập ở đây người ta đốt pháo con nghe khổ khổ trong bụng, suốt đêm không ngủ. Con đâu có tính khóc mà nước mắt cứ chảy ra. Con nhớ Việt Nam quá. Con muốn làm người Việt. Ở đây mãi thành Mỹ mất!
- Con muốn làm người thuần Việt Nam như ông bà mình thì phải về Việt Nam sống. Điều đó chưa thực hiện được. Má đã giải thích với con nhiều lần rồi. Con muốn làm người Việt Nam để làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam? Chuyện đó ở đâu làm cũng được. Con muốn làm người Việt Nam để phục vụ dân tộc con? Người Việt mình bây giờ đang ở nhiều nơi trên thế giới. Con có cả cuộc đời để phục vụ nếu con muốn. Con không bao giờ thành Mỹ cả. Con là người Việt chịu ảnh hưởng hai nền văn hóa. Má và bạn bè của má sẽ giúp con hiểu về văn hóa của xứ con. Cái chính là con phải biết lựa chọn cái hay của hai nước để học hỏi.
- Con hiểu rồi. Má nói cái đó hoài. Má nói như giảng bài trong lớp. Con chỉ muốn nói là con thấy thiếu thốn cái gì mà không nói được. Những lúc má đi vắng, nhà im lặng quá. Chung quanh người ta đóng cửa không thấy ai cả. Con nhớ chỗ mình ở hồi đó trên đường Yên Đổ lâu lâu nghe hàng xóm cãi lộn rồi làm lành với nhau cũng vui vui. Với lại người lớn ở Việt Nam thương con nít lắm. Ở đây họ khác. Má dẫn con đến nhà ai người ta cũng chỉ nói: "Hi, con. Sao mập vậy? Sao ốm vậy?" rồi thôi. Họ lo nói chuyện mua bán nhà, mua đồ sale, quần áo, máy móc... Còn thêm cái nạn mấy đứa Việt Nam ở đây trước, thấy mình chưa biết gì khinh khinh, chơi sao được mà má biểu chơi? Con muốn về Việt Nam vui hơn.
- Má biết con buồn lắm. Ở Việt Nam con là điểm sáng của gia đình. Con là một đứa bé có tình, dễ thương, hiền hậu. Con có đầy đủ tình thương trong gia đình ngoài hàng xóm. Rồi bỗng dưng không còn gì cả. Ở đây con chỉ có một mình má. Má không thay thế được hết tất cả mọi người. Con cũng không nên thắc mắc về những người bạn nhỏ. Những gì con đã trải qua các bạn đó không được biết. Gặp con họ cũng lúng túng khổ sở như con vậy. Con ở lâu sẽ hiểu bạn con hơn. Má thương con, thấy con thui thủi một mình mà xót xa. Nhưng mà con à, dù sao con cũng còn có má. Học trò của má nhiều đứa không có được một người thân. Mỗi lớp đều có vài ba đứa không nhìn thấy má là cô giáo, chỉ thấy má là người mẹ, gọi má là "mother" trong giờ học. Chúng nó than với má đủ chứng sổ mũi, nhức răng, chiêm bao, ác mộng. Có đứa đã bỏ học đi bụi đời mà tình cờ gặp lại má vẫn gọi bằng "má" một cách chân thành, trách má không đem về trông nom mới thành hư hỏng. Trong hoàn cảnh này phải bằng lòng với cái gì mình đang có. Con không nên quá tủi thân.
- Tội nghiệp mấy bạn đó quá má há. Hôm đến ngủ với con, anh Hùng nói: "Em chịu khó chỉ anh học đi, mai mốt anh giỏi anh vô trường giúp lại mấy thằng dở". Ảnh người lai mà giống Mỹ quá, mấy thằng bạn con tưởng ảnh Mỹ thiệt nói tiếng Mỹ lia lịa, làm ảnh ú ớ thấy thương lắm. Con phải cứu ảnh.
- Mười sáu tuổi mới bắt đầu đến trường lần thứ nhất đó con. Lúc này cậu ta viết được cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt.
- Ảnh chịu khó lắm. Con thấy một chữ mà ảnh viết đi viết lại mấy trang giấy. Má à, con thấy học cực quá rồi cũng chẳng ra gì cả.
- Con nói vậy nghĩa là sao? - Mỗi ngày trên đường đi học về, con thấy nhiều người đàn ông mặc đồ lớn, thắt càvạt, xách cặp da, đứng ngồi trong xe buýt, trông họ nản lắm. Con thấy đàn bà áo quần thiệt đẹp mà phấn son trôi hết, mắt lim dim mệt mỏi. Không thấy ai vui, ai cũng có vẻ lo lắng ráng chịu, chen chúc trong xe. Rồi con lớn lên, học đại học xong, đi làm như họ, cũng mệt mỏi chán chường như họ, con không muốn! Đến nước Mỹ để cuộc đời chỉ có vậy thôi sao?
- Con còn nhỏ con chưa biết. "Chỉ có vậy thôi" mà biết bao nhiêu người ở xứ này không làm nổi. Con đã nhiều lần chỉ cho má những kẻ không nhà nằm la liệt trong công viên, trên đường phố, đến bữa ăn xếp từng hàng dài đi lãnh phần ăn miễn phí, con nhớ không?
- Dạ nhớ. Họ ngồi quanh thư viện ở Copley đông lắm má. Ngày nào con cũng gặp. Họ xin tiền con hoài. Có nhiều người còn trẻ quá mà sao vậy hả má?
- Vì hoàn cảnh thế nào đó mình không thể biết được. Nhưng có thể cũng có những người nghĩ như con; cuộc đời "chỉ có vậy" thôi thì cố gắng làm gì.
- You got me, mom. - Không, má không có ý muốn "thắng" con. Má chỉ muốn cho con thấy hai con đường lựa chọn đó. Thật ra còn nhiều con đường nữa. Má không biết hết. Má chỉ nói với con điều má biết. Con có thể bỏ học ngày mai rồi đi làm cũng được. Con đi làm thuê lặt vặt. Con học hỏi ngay trong cuộc đời. Người Việt mình gọi là trường đời. Nhưng cái trường đời của nước Mỹ này nó đầy dẫy những chông gai cạm bẫy, thằng con cưng của má mà lọt vô đó thì má hồi hộp từng giây.
- Boom? Lọt vô cái rầm. You're dead! Hì hì!
- Chết. Coi như chết trước mắt. Guarantee.
- Thôi để con đi học bảo đảm hơn nghe má.
- Con thấy học có thú không?
- Sure. Biết nhiều cái đã lắm.
- Chọn một việc làm thích hợp với mình cũng "đã" lắm. Con phải có kiến thức căn bản để chọn ngành nghề. Chọn đúng rồi con cứ thế mà vui.
- Dạ con muốn làm cái gì vui vui. Đời má thấy buồn quá. Cứ làm hoài. Má có biết má là workaholic không? Má ghiền làm việc như người ta ghiền rượu. Má phải enjoy life chứ. "Enjoy" tiếng Việt là gì má?
- Là "vui hưởng". Má không được giáo dục phải vui hưởng cuộc đời con ạ. Có lẽ vì thế mà thành thói quen. Với lại con muốn có một người mẹ bận rộn say sưa với công việc hay một người mẹ buồn rầu than vãn về những khó khăn trong đời sống?
- Con biết rồi. Nhưng má không còn nói chuyện với con như hồi ở Việt Nam nữa. Nhiều khi con không biết má còn thương con không. Má còn thương con không má?
- Sao con hỏi kỳ vậy? Ở đây có nhiều chuyện để lo quá con à.
- Có khi má giống người ở đâu đâu...
- Thôi khuya rồi, đi ngủ đi con.
- Con đói bụng. Hồi chiều con còn ớn bữa ăn trưa không muốn ăn cơm.
- Bữa nay trường cho con ăn gì?
- Shit on the bread.
- Món gì ghê vậy?
- Món thịt bằm giống như cái người ta tiêu chảy chế lên bánh mì.
- Chắc là món sloppy joe. Thức ăn đừng nói vậy không nên con.
- Con đâu có nói. Thầy con nói. Thầy con nói hồi ở trong quân đội thầy con nghe lính nói: Phải công nhận đồ ăn Mỹ dở thiệt! Con nhớ phở Pasteur, bún ốc chợ Tân Định, nem nướng chợ Phú Nhuận. Bây giờ có sẵn cuốn chấm tương, yummy! yummy! Đã má há! Con thèm quá. Má à, chắc không có ai thèm hamburger như mình thèm nem nướng đâu há má?
- Có con à. Bạn má là dì Teresa của con mỗi lần ở Ý về Mỹ là tìm đến McDonald's ngay. Có lần Teresa nói với má: "Trang à, mình hiểu Trang lắm. Món ăn của Ý dù sao cũng không khác món Mỹ cho lắm, thế mà có lúc mình thèm một cái hamburger trong không khí tiệm ăn McDonald's hay Burger King. Thèm lắm, thèm ứa nước mắt, thèm đến run người. Cùng một món ăn đó mà không có ở đâu giống ở xứ mình phải không Trang?". Con thấy không, món ăn mà con chê, con cười chính là một phần hương vị quê hương của người Mỹ.
- Mom Laura của con cũng kể cho con nghe một chuyện như vậy mà con quên. Mom nói ở Ấn Độ rất nghèo. Mom biết là số tiền mua một cái hamburger và một ly cà phê ở nhà hàng bên đó có thể nuôi sống cả gia đình mà mom quen biết một vài ngày. Thế mà đôi lúc mom vẫn cứ ra phố để mua cho được.
- Đó, con thấy chưa? Con không nên chê bai, khe khắt, cay nghiệt với những gì của người khác không giống của mình, nhất là con chưa có dịp thưởng thức những món ngon nấu nướng rất công phu của nhiều gia đình Mỹ.
- Dạ có, con có ăn turkey dinner ở nhà dì Kathy. Con thích lắm.
- Thôi con với má xuống bếp ăn cereal đỡ đi. Mai má dậy sớm nấu phở con ăn rồi đi học.
- Cereal này giống như cỏ khô ngâm trong sữa. Kệ, ăn đại, chết bỏ. Sao má mua loại này chi vậy?
- Mình còn nhà quê, phải thử cho biết để lựa chọn con à.
- Ở Mỹ biết chừng nào hết nhà quê. Sao bữa nay má cho con thức khuya vậy?
- Con ngủ không được má ép cũng vô ích. Với lại lúc này hai mẹ con đều bận không có dịp nói chuyện với nhau. Con nghĩ gì phải nói cho má biết để má giúp con. Đừng lo liệu một mình nhiều khi...
- Get stuck. - Ừ, má muốn dùng chữ "bế tắc" mà sợ chữ đó lạ đối với con, chưa kịp nghĩ ra chữ nào đơn giản hơn thì con đã biết.
- Thông minh mà!
- Thôi được rồi cậu. Ăn nhanh, đánh răng, đi ngủ liền bây giờ.
- Má đưa con đi ngủ.
- Không. Con đưa má. Con lớn rồi. Bể tiếng ồ ồ, râu mọc li ti còn đòi má đưa đi ngủ.
- Con đâu biết. Lúc má nói lớn rồi, con phải làm cái này, phải làm cái nọ. Lúc má nói còn nhỏ lắm chưa được làm điều này, chưa được làm điều kia. Ha! I got you!
- Tại con đang ở cái tuổi vừa là người lớn vừa là con nít. Buồn đó rồi vui đó. Mới vừa thắc mắc về cuộc đời xong lại than đói bụng.
- Thôi má ngủ ngon nhé. Để con ếm mền vô giường cho má khỏi té như con. Nhớ đừng thức dậy giữa đêm rồi làm thơ "Tôi ngồi trong bóng đêm. Ôm trái tim mềm mại" nữa nghe!
- Việt đi ngủ!
- Má!
- Gì nữa?
- Con thương má lắm!
- Cám ơn con. Đi ngủ đi!
- Má!
- Việt, má sắp sửa hét con rồi đó!
- Má nghe bên ngoài kìa!
- Gì?
- Không còn gió nữa.
- Ừ, tự nó nổi lên rồi tự nó yên. Thiên nhiên mà. Má bây giờ nghe gió chỉ để dạy học trò tả cảnh thôi con ạ.
- Má tough quá!
- Không đâu con. Tuổi già xúc cảm cũng đổi theo.
- Má! Con cấm má nói "tuổi già". Má qua đây bắt chước Mỹ sợ già. Con không thấy má già. Má không bao giờ già. Má không bao giờ chết.
- Con cãi má riết má chết. Đi ngủ đi!
- Má, một câu nữa thôi, ok?
- Ừ.
- Cám ơn má nói chuyện với con. Cho con hôn má một cái. Cần gì nhớ gọi con, nhất là đừng sợ gió. Con biết má còn sợ chút xíu phải không? Đêm nào có gió to là con thấy phòng má đèn sáng rất khuya. Trong bóng tối người mẹ nằm yên nghe ngóng: không có tiếng gió, chỉ có tiếng thở đều trong giấc ngủ say. Bà thở ra nhè nhẹ cảm nghe một chút an lòng. Bà đã không đáp lời con vì những cơn gió dữ về đêm vẫn còn gợi lên trong lòng bà niềm xót thương thân phận. Nhưng điều đó đã trở thành thứ yếu. Nỗi băn khoăn to lớn của bà bây giờ là tiếng lăn trở thao thức, tiếng rên khe khẽ thoát ra từ trái tim non nớt cô đơn của đứa con đang muốn tìm thấy nó giữa muôn người dị chủng.