Bà nội tôi
, gốc ở Nghệ An có một người chị dâu, trong gia đình gọi là “bà Nghệ” vì cũng quê ở Nghệ An. Bà nàythỉnh thoảng có ra Hà Nội chơi khi gia đình tôi sống ở phố Hàng Ngang. “Bà Nghệ” có người cháu ruột tên là Huệ sau này cũng ra làm việc ở hiệu Lợi Quyền một thời gian. Sau này chị đi lấy Tây (lính) không làm ở Lợi Quyền nữa ; mãi sau 1954 chị lấy một hàng binh người Marốc và theo chồng về Marốc. »
, gốc ở Nghệ An có một người chị dâu, trong gia đình gọi là “bà Nghệ” vì cũng quê ở Nghệ An. Bà nàythỉnh thoảng có ra Hà Nội chơi khi gia đình tôi sống ở phố Hàng Ngang. “Bà Nghệ” có người cháu ruột tên là Huệ sau này cũng ra làm việc ở hiệu Lợi Quyền một thời gian. Sau này chị đi lấy Tây (lính) không làm ở Lợi Quyền nữa ; mãi sau 1954 chị lấy một hàng binh người Marốc và theo chồng về Marốc. »
Ở đây , tôi xin kể
tiếp đời sống của Chị Huệ (H) , thời gian gặp gỡ vợ chồng Chị tại Maroc ; sống
tại đó ; đến khi hồi hương giữa thập niên 80-99 ; rồi mất tại quê hương , Việt-Nam
Chị
Huệ
|
1)Thời còn trẻ :
-
tôi vẫn hình dung được Chị Huệ (có tên nữa là Tuyết) khi còn
trẻ ;
_
Chị thường ăn bận « tân thời » : quần trắng , áo thời-trang ,
tóc uốn quăn (« phi dê ») ; đeo đồ trang
sức bằng đá quí hay vàng , bạc ; đi giầy cao
gót
_Chị
luôn luôn cười , để lộ hàm răng cạo trắng, nhấp nhánh một hai cái
bằng vàng, một cách diện khi xưa.
Nhưng
tôi còn nhớ mãi cái giọng trọ trẹ đường trong , tiếng Nghệ mà chúng tôi bắt
chước mãi không được
-hình
như Chị chiều chúng tôi lắm, hay dấu người lớn cho ăn quà, và thường
bênh chúng tôi khi bị mắng...
-Chị
qúi anh em chúng tôi ,nhưng thích nhất cô Đoan và sau này còn nói với tôi là
«...ước vọng của Chị là khi về hưu được sống lúc già với gia đình cô
Đoan ; gíup đỡ và săn sóc các cháu...»
tiếc
thay chuyện này không thành !
_Chị
cũng không làm việc lâu phố Hàng Ngang và nói là thichđi buôn bán riêng :
hình như làm quán bán nước giải khátcho Quân đội Pháp (?). Sau này
Chị bảo là « nghề này dễ lắm : chẳng vốn liếng gì cả , chỉ nhận
hàng rồi bán lại. Khách lúc nào cũng đông !» cũng đừng quên là phải có
duyên như Chị mới làm việc dễ dàng(!)
_khi
lên Hà Nội ,Chị thường hay đi cùng và giới thiệu với gia-đình chúng
tôi một vài cậu lính trai : lúc thì Pháp , khi thì Đức , có khi cả người Ả
Rạp , ít khi thấy người da đen (?!). Những khi ấy thì Mợ -mẹ chúng tôi-
bực mình lắm . Tiếp đãi sơ sài , Bà chỉ mong Chị rời đi ngay. Bà sợ
bà con hàng xóm bàn tán hay con cháu bị ảnh hưởng. Nhưng cũng nhiều khi Mợ
thương Chị , bỏ qua đi ...
Khi sống ở Ma roc :
nhưng
cũng chính nhờ Mẹ tôi mà Chị biết- vào hồi thập niên 1970-75 ,là tôi
đang sống và làm việc tại Ma Rốc . Sau này Chị kể là trước khi rời Việt
Nam , Chị có đến giới thiệu người chồng (cuối cùng) và từ-biệt gia đình ,thì Mợ nói
là nếu đến Rabat , thì sẽ gặp em đang sống ở đó.
Cho
nên một hôm tôi ngạc nhiên nhận được bức điện-tín ,tiếng Việt không dấu, cho
biết sự «hồi hương» của Chị và chồng và hy vọng sẽ gặp. Thế rồi một tối ,khi đi
làm về, tôi thấy trước cửa nhà nhiều hành lý bừa bãi, nào là va li ,
nào là bọc vải ...dưới sự ngạc nhiên của người láng diềng xúm quanh xem ,
nghe ngóng.
Thú
thật khi mới gặp lại, tôi không nhận ra được Chị (!) . Thời gian và khoảng cách
đã đem tới trước mặt tôi một bà già đen đủi , hốc hác...ngay cả tiếng
chào giọng Nghệ cũng không làm tôi hình dung được người
giúp việc duyên dáng phố Hàng Ngang ngày ấy...Rồi một giọng
nói (Việt?) của một người đàn ông to lớn đi theo, cũng làm tôi hoang
mang , không hiểu gì cả (?) . Chị H cười , giới thiệu : « đây là
Buđali (BDL), chồng chị đấy! ». Chị em mừng lắm.
Chị
H nói là đương đợi trợ cấp của ông «Hà Sang Hai« (?!)-(Hassan Đệ Nhị, quốc
vương Ma-Rôc khi ấy)- khi được sẽ thoải mái hơn.Tôi bảo cứ yên trí ,ở
lại,đất khách , quê người , gặp nhau nơi xa lạ ,là qu’i .Nên hai người
ở lại chơi với tôi một thời gian.
It
lâu sau , hè 1971 , có một cuộc nổi lọan : một nhóm sỹ quan trẻ
muốn lật đổ ông vua Hassan II ,và tấn công nhà Vua và quần thần , khách
khứa ;nhân ngày Sinh Nhật của Ông ,ở một biệt thự nghỉ hè gần biển ;
nhưng
không thành.Tình hình bất yên trong it lâu .
Đến
năm sau,1972, lại có đảo-chính khác : lần này một
nhóm sỹ-quan không-quân muốn bắn vào máy bay của Hoàng Gia khi họ bay qua biên
giới Tây Ba Nha – Ma Rôc (nhưng lại không thành!). Tôi nhớ là cùng Chị H lên
sân thượng xem máy bay của nhóm bạo động oanh tạc xuống hoàng cung...
Nhưng
tình hình lại yên ngay và chị H và BDL lại đi , về thăm tôi luôn.
Cũng
phải nói là thời gian này, tôi vừa tới Rabat làm việc. Lương thực-tập cũng
chẳng là bao, lại thêm hai cuộc đảo chính , công việc it...Tuy vậy tôi thuê
được một căn nhà rộng rãi ,nhiều buồng ,mặc dầu tình hình kinh tế khó khăn.
.Giường chiếu sơ sài , bàn ghế chẳng có gì cả ,trừ một tủ lạnh do người chủ cũ
để lại ( chị H. Còn y’ thức là : «tủ lạnh của em luôn luôn chẳng có gì
cả ! »)
Năm
1973 , tôi về Pháp lấy vợ ; và khi trở lại Rabat , có làm môt bữa cơm tiếp
tân gần tất cả cộng đồng người Việt tại đây. Chị H và chồng cũng được mời . Hôm
đó chị diện lắm : đeo vòng vàng , mặc áo gấm.., đi giầy hài (?)
mất cả vẻ quê mùa mấy năm trước ; còn BDL say rượu tơi bời... làm chị H
rất bực mình.
Lúc
say rượu , ông vui lắm , kể một chuyện này đã xẩy ra với chính ông khi ở
chiến khu Việt Bắc :
_
một đêm ông đi câu tình cờ ... gặp hổ ! May vì say bí tỉ , ông
chẳng sợ gì cả , nói chuyện với hổ bình thường và xin hổ ...tha cho ( tôi
già rồi , ăn không ngon đâu !..). nên thoát chết !
Tôi
nghĩ chắc là mùi rượu nồng nặc có it nhiều hiệu nghiệm về chuyện này (chẳng
biết có thật hay không ?)
Thời
gian trôi , ...các con trai tôi lần lượt ra đời , chúng tôi vẫn sống
tại Rabat , Ma Roc...
Bây
giờ hai người cũng đỡ vất vả : có công ăn việc làm , có cả nhà ở ,
sung túc lắm ( xem khúc dưới) . Nếu ông bà không lên chơi Rabat-( BDL rất
thích được chở xe đi dạo chơi thành phố ; còn bà H thích làm các món ăn
Việt truyền thống ,chiều cả nhà)-thì chúng tôi , trong những ngày nghỉ, đến
thăm họ ở Beni Mellal một nơi cao ráo , khí hậu tốt ,
cách Rabat vài trăm cây số phía đông –bắc.Nơi mà chính quyền cho phép họ định
cư.
Tôi
nhớ mãi một « Lễ Cừu » (của Hồi Giáo , kỷ niệm việcIbrahim giết
cừu –thay con-để dâng Chúa) , chúng tôi tới nhà đó bằng xe
hơi : một căn nhà kiên cố giữa núi đồi (chi tiết ở mục sau ) .Hôm lễ
, các cháu tuy không giám xem BĐL cắt cổ con cừu , nhưng rất thích thú được
thấy BDL lột da cừu sau khi giết:ông thổi phồng vào các khe hở cắt
tại các khuỷu chân cừu;rồi mạnh tay lột da, kêu rôm rốp...Da này làm
thảm để qùy cầu kinh hay là để treo làm trang trí trên tường.Bây giờ kể qua về
những món ăn thường làm ngày ấy (vì những món này không giữ được lâu) :
-sau
khi bị lột da , con cừu được treo lên cho máu chảy hết (gọi là “hallal”) ;
món ăn đầu tiên là các bộ gan , cật , được bọc một thứ mỡ tràng nhạc để
nướng ; sau đó mới làm thịt nướng hay thịt hầm . Nhóm lửa thì người ta
buộc vải quanh cây nến ; chất củi nhỏ chung quanh để làm nhóm ; rồi
mới đổ than chung quanh. Da thì treo gần đó để mùi mỡ dính vào cho thơm
(?!) . Chị H. Rất sợ chuyện này (!)
Cuộc
đời có thể lặng trôi như vậy (ông bà gần tìm được không khí đầm ấm một gia đình
nhỏ trong tình cảm nơi xứ lạ)...cho đến khi- vì một bệnh hiểm nghèo đến sức
khỏe của cháu Nam ( một cục u ,ung-thư ác đè trong óc)khiến- chúng
tôi phải bỏ tất cả công việc-tuy đang phát triển tại Rabat- để thu xếp về
Pháp chữa trị cho cháu , vì chán ngán . Và còn dự định sẽ không trở lại Rabat
nữa ! Dĩ nhiên là vợ chồng Chị rất buồn .
Chị
H. Cũng muốn đi theo luôn ; nhưng tôi nói là « ở với ai cũng phải
có tình , có nghĩa , Chị về đây , có địa vị như ngày nay , một phần
cũng nhờ Bu Đa Li đã đưa về ( xem đoạn sau) ; vì vậy
nên ở và phụng sự Ông cho tròn bổn phận ; Chị chỉ có thể rời
Ma Roc khi Ông sẽ không còn nữa !» . Chị nghe cũng phải ,
nên không đòi đi nữa ... Rồi cuối cùng , sau khi ông này mất (vì già thôi) Chị
cũng có sang PaRis it ngày thăm chúng tôi và tỏ ý định muốn trở về
Việt Nam . Chị nói là bây giờ Anh trai của Chị, tên Quế mất đi-hy
sinh vì kháng chiến-có để lại vợ , và hai con (1trai ,1gái) và
họ cần Chị giúp đỡ !
Tôi
khuyên Chị nên tạm xin phép về thăm gia đình độ 6 tháng xem xét tình
hình .Mà nếu đi cũng nên để lại tiền, hay đồ quí giá chúng tôi giữ hộ.Chị không
nghe và nhất định thu xếp để hồi hương vĩnh viễn bỏ lại tất cả (những
gì) đã gây dựng ở Ma Roc. Khi ấy là cuối thập niên 80, đầu 90...
Sau khi về Việt – Nam :
trước
khi về , Chị H chuẩn bị tất cả chu đáo , hành lý , tiền bạc , đồ trang sức (mà
tôi đoán là giữ trong mình như phần đông các bà người Việt). Chị có
vẻ hăng hái lắm ; tin tưởng là về VN , Chị có thể giúp ich cho gia đình
người anh của Chị (chị dâu , và nhất là hai cháu trai,gái của Chị). Qua các thư
chị viết từ VN cho tôi thì :_Mới đầu Chị sống ở miền Bắc ,ít
liên lạc với gia đình anh em tôi (khi đó cũng rất bận?); sau đó về sống it lâu
với chị dâu và hai cháu trai và gái . Chị đã giúp đỡ họ cho đến khi người chị
dâu chết (hình như Chị không thuận với cô cháu nữa?) , còn người cháu trai
đã lấy của Chị một số tiền lớn ( nói là để đi buôn , nhưng thật tình đã thua
bạc , sạt nghiệp) . Những thư sau cùng thật là ai oán : chị nói là nhiều
lúc Chị không còn cả tiền tem để viết thư cho chúng tôi.;còn các bạn
tôi nhờ đến thăm thì nói là Chị ở trong một tình trạng thật bi đát (!)...Sau
nữa , qua thư từ tôi cũng đoán là chị bị bệnh quên-lãng-tủôi-già, lời
lẽ , lý luận đã lệch lạc, khó đoán.Chị cũng nói là đã tự mua cho Chị một miếng
đất dành cho phần mộ nếu có mệnh hệ gì .
Rồi
một hôm tôi nhận được thư của cô cháu gái cho biết là Chị đã mất(!).Khi ấy giữa
thập niên 1990-2000... Cứ theo lời thư của Chị thì mấy người cháu này không
biết ơn nghĩa là gì cả (!)
2.
tình hình hồi đó :
_sau chiến
dịch Điện Biên Phủ ;một số hàng binh Bắc Phi ( Algérie,Maroc,Tunisie) còn
ở lại, sống tại ViệtNam.Nhiều người lập gia-đình , đã có con cái.Họ
ở chung tại một nơi do chính phủ VN quản lý.
Rồi
thì phần đông –thành phần Quân Đội Hàng Binh Ma Roc (và gia đình)- ngỏ
ý xin hồi hương .
Họ
muốn được về ( Pháp,Ý,Đức ,TâyBaNha..) và đã có liên lạc, vận động với các
chính phủ Âu Châu kể trên , nhưng it có kết quả tốt (được hồi hương và được trợ
cấp).
Phía
VN khuyên họ nên thương lượng thẳng với những quốc gia mẹ – nơi đã
sinh và trưởng thành- vì lý do an ninh ,để được an toàn : đừng quên những
rắc rối (bị bắt , vào tù , hay qua tòa án quân sự) có thể xẩy ra cho hàng binh
khi trở lại đơn vị các nước cũ. .Vì vậy có nhiều móc nối nữa với các
chính phủ Bắc Phi.
Mới
đầu , chính quyền Vương Quốc Hassan II không chịu , nhưng với thời gian , họ
bằng lòng nhận cho về :
một
vì nhân đạo ; hai là để kiểm soát dễ dàng-những phần tử có kinh nghiệm
chiến đấu ,và có thể có những ý kiến đối lập –nếu về sống trên đất
nước .
Trường
hợp BDL cũng đặc biệt :
Ông
là chiến binh tình nguyện , từ khi còn trẻ đã đi lính cho Pháp thời chiến tranh
thứ hai chống lại Đức Quốc Xã .Đã bị làm tù binh của Đức ; sau khi được
tha , lại tiếp tục đi lính cho Pháp ở Việt Nam , và làm hàng binh QĐ VN tại
Điện Biên Phủ . Ông sống tại VN đã...24 năm , nói và hiểu tiếng Việt.
Chính Ông đã bảo lãnh Chị H cho cùng về Ma Roc. Trước Ông , chị H đã có một đời
chồng người xứ Algérie ,nhưng ông này không chịu đưa chị H về xứ. Còn BĐ L thì
nhất định không về xứ nếu chị H không được đi cùng. Ơn nghĩa như thế đấy
(!) .Về trợ cấp QĐ thì , sau 24 năm sống ở VN , Ông đã mất hết giấy tờ (chứng
nhận thời gian bị làm tù binh Đức QX) vậy phải làm lại giấy tờ đòi
Chính Phủ Pháp (có lẽ lâu lắm và!?) ; còn đòi lương hưu trí QĐ
Pháp-thời gian tại VN-thì dĩ nhiên không được : vì đã là hàng binh
ĐBP !
Nhưng
đừng quên sự xoay sở tháo vát tài tình của chị H (xem chi tiết)
thân phận những gia đình khác :
Cùng
chuyến về này với ô/b BĐL.và H. Có nhiều gia đình khác .Phần đông là các phụ nữ
Việt lấy chồng người Ma Roc và con cái (nghe nói có tới 300 người
).Thường những người quê quán ở đâu thì được về đó-nếu ở đó đã
có sẵn những đồn điền cũ nhỏ khai khẩn bởi những người ngoại quốc ( Pháp ,
TâybaNha , Ý Đại Lợi , Đức,v…v)-nếu không thì được cấp đất ,hên
xui như trường hợp BĐL và Chị H.
Chị
H. Kể chuyện là khi máy bay qua HongKong, tất cả được tiếp đãi rất
thịnh soạn : nơi ăn chốn nằm.
Chị
nói là tất cả đều rụt rè về chuyện (không dám) dùng bồn tắm ,hay(còn)
lấy phần vì đồ ăn quá nhiều ! ) _Giỏi nữa : thì chạy
chọt , quen biết,mánh lới như vài trường hợp tôi đã gặp .
Sau Chị
H. Và BĐL , thêm một số gia đình những phụ nữ người Việt , chồng bản xứ mới
hồi hương đến thăm chúng tôi....Họ đến một mình ,từng cặp , hay có
khi mang cả con cái tới.Suốt mấy tuần liền đều có khách khứa...Làm chúng tôi
–ít khi được gặp những đồng bào như vậy – rất hoang mang , và bối rối trong sự
tiếp đãi người đồng hương.
_những
người này , chuyện rất lạ, là không thích nhau , cứ dòm ngó , sịt sẹt tố cáo
lẫn nhau (?)
_
có mấy cô bé còn mách và gọi bà vú nuôi con tôi (một phụ nữ nông thôn bản xứ )
là « phát xit » (?!)
_
ngay Chị H và BĐL cũng có vẻ cũng không thích những người này và ngược lại, họ
cũng chẳng ưa gì hai người , và không ngại lời chỉ trích.(!?). Tôi có cảm tưởng
là có lẽ họ nghe phong phanh là « ông bà BĐL có bà con
ở Rabat nên đến thăm xem.. », ngoài vấn đề tình cảm , có được lợi
lộc gì chăng ( !?)
Có
lẽ lúc đó, tôi tiếp đón không được chu đáo lắm (tình hình vất vả vì những lẽ đã
trình bầy trên).
Tôi
nhớ :_có khi tất cả phải ngủ cả trên mặt sàn gạch ;may là Rabat khi
ấy khí hậu nóng bức!) ; nên dần dần họ cũng ít lui tới
nữa ; rồi biệt hẳn tin tức.
Nói
chung thì các gia đình phần đông ,tuy không may mắn như chị H. ,
nhưng ai ai cũng được trợ cấp chu đáo, có công việc , đất đai , làm ăn . Chỉ có
là không biết quản lý di sản của mình, nên sa sút với tháng năm .
Về
phía đàn ông Ma Roc , trừ ít người tôi gặp ,thì sống
không được đứng đắn lắm:
_những
người đã có ít trách nhiệm trong việc hồi hương này với bà con thì nay lại
trở mặt : vì có học thức , họ liên hệ với giới cầm quyền để kiếm tư lợi
cho riêng mình như trường hợp một người tôi biết ở tỉnh K : ( hắn giữ hết
giấy tờ giao-thông để ép duyên một cô đầm lai không cho về Pháp
,thật đáng thương !)
_những
người khác lúc đầu còn chịu làm ăn , săn sóc gia dình .
Sau đó, dần dần họ đâm lười biếng , không chịu làm việc , ruộng đất
bán dần ; lấy vợ hai , vợ ba (có lẽ cũng vì Đạo Hồi Giáo cho phép), hay
tại bây giờ mấy bà vợ Việt,cũng vì những hậu quả của
chiến tranh , điều kiện sức khỏe ,có tuổi , già , xấu xí ;
chẳng thiết gì về tình duyên ?Nhưngcác bà sống can đảm ,chịu
đựng,nhẫn nại hầu chồng, nuôi con qua ngày .
Thê
hệ con cái :
Hồi
đó , tôi thấy giới thanh niên không xuất sắc lắm : học
hành dang dở , ít người thành công , nhiều cậu
cũng
đâm lười biếng ,ít người chịu đi học , làm những nghề kiếm tiền dễ
, theo lối sống mới ...
Tôi
nói như vậy vì đã có dịp giúp đỡ hai thanh niên người lai...Họ không
kiên nhẫn và bạc nghĩa.
Sau
này , có lẽ giới mấy cô thành công hơn : có chuyện
mấy chị em ở tỉnh Kh . Sau khi ông bố chết , bỏ lại bà vợ trẻ và nhiều con gái
. Các cô đã đi xa , lấy chồng , học hành đến nơi đến chốn, vẻ vang
lắm .
Rồi
còn chuyện mấy người con gái chung nhau mở tiệm ăn ở CasaBlanca , một tỉnh lớn
, cũng làm nên , khá giả. Sau này , lớp mới có lẽ khá hơn ; Còn
hồi sống ở Rabat , tôi ít thấy chuyện làm ăn tốt như vậy.
[muốn hiểu thêm về cac gia đình này,xin đọc «Poussières
d’Empire/ của Delanoé Nelcya/ nhà XB «PUF » PaRis/2002 ]
3.
ít
hàng trên là để tưởng nhớ tới một người chị họ thân yêu,và ,rộng ra, bàn tới
hoàn cảnh những đàn bà số phận như Chị H với nhiều đức tính tốt của phụ nữ Việt
Nam : chịu đựng , cần kiệm.
Nhân
có ít nhan sắc , ngay từ trẻ Chị đã tự lập . Ngày
ấy, là « me tây » , làm ăn kiểu « bia
ôm » là điều mà dư luận lên án .Làm sao để ấm no ?
Nếu không có nghị lực phấn đấu... tin tưởng vào mình ?
Những năm ở Maroc, Chị có tài tảo tần , tháo vát:
_
không biết chị làm thế nào mà hai vợ chồng – khi được phép về ở vùng Beni Mélal
, một nơi khí hậu cao ráo , trong sạch ; ngày trước ở đây có những đồn
điền trồng cam nổi tiếng của Pháp- đã có công ăn việc làm (tuy nhẹ nhàng thôi).
Chị H. Làm việc giặt giũ trang phục , quần áo cho các
công nhân nam ,nữ ở đó.
_còn BĐL
được 1 chân gác kho trong một nhà máy làm đường ở B-M ( do nước
Đức tài trợ ) Lương bổng tương đối khá .Ngoài công
việc ấy, họ còn được cấp đất , nguyên liệu để làm một căn nhà –theo cách xây
cất dân gian ở vùng đó-dản dị , kiên cố. Hai người còn được thêm chủ
quyền một bằng lái xe taxi , đem cho thuê hàng năm để
thêm tiền tiêu. Những khi di chuyển B-M _ Rabat , tôi chắc cũng mua
bán được ít nhiều lợi tức cho mình và các bạn(?)
Những
chuyện tiền bạc , không bao giờ Chị cho chúng tôi biết ; và ngược lại ,
tôi cũng chẳng hỏi Chị làm gì ; nhưng qua cách sống của Chị (dản dị,
dè sén) , cũng phải công nhận Chị là người dành dụm, tháo vát , « vượng
phu ». Còn « ích tử »... ? thì nhân nói chuyện
con cái :khi sống ở Ma Roc , Chị và BđL đã nhiều lần nuôi vài
ba cô con gái Việt lai ,nhưng khi lớn lên là bỏ đi , không sống với hai Ông Bà nữa.
(Chị
than là chị cao số , hiếm con !).
_Chị
còn là người thức thời , có những quyết định nhanh chóng, hợp tình,
hợp lý :
_Chẳng
hạn Chị đã tham gia vào chuyện « Hành Trình Xanh » do Quốc
Vương Hassan II đề xướng ra :
số
là khi ấy tình hình ở Ma roc không được tốt lành cho lắm :ở
miền nam có sự tranh chấp đất đai ( các miền sa mạc ranh giới ,thuộc
địa cũ của Tây Ba Nha) , mà ngày nay ba nước cùng đòi hỏi là Ma
Roc , Mauritanie và Algérie . Một tổ chức Quân Đội kháng chiến tự
xưng là « Polisario » được Algérie ngấm ngầm giúp
đỡ) đang tiến hành những cuộc quét càn du
kích chống QĐ Hoàng Gia , gây rắc rối với cả Mauritanie...Vấn đề này
đã được thông báo với Liên Hiệp Quốc nhưng chưa ngã ngũ. Thì đây : tướng Franco
của Tây Ba Nha già và đưong bị đau ốm gần chêt . Nhân dịp này Hassan II đề
xướng một cụôc tiến hành (hòa bình thôi!) tên là « Hành Trình
Xanh » để lấy lại cho Ma roc một phần đất đai này.
« Xanh »
đây là mầu tượng trưng của Hồi Giáo : ( Hồi Giáo đang chuyển động!) ;
chứ không có nghĩa “kính trọng môi trường” như ta hay nghĩ
ngày nay !. QV Hassan II đã làm hai điều lợi :
_với
các nước (dành lại đất đai trên danh nghĩa đứng đắn)
_với
dân chúng bản xứ (tạo công ăn, việc làm cho một lô dân nghèo)
; Khôn khéo thế đấy !.
Chị
H. Và BĐL. Rất vất vả (sức khỏe , điều kiện vệ sinh , bất an toàn )trong cuộc
hành trình này ; nhưng rồi cũng về đến nơi đến chốn và đều được thưởng bội
tinh...mở cửa cho chuyện xin đòi vật chất sau này.
_
một điều mà tôi phục là trong hành trình khó khăn này , Chị vẫn luôn luôn tự
hào là người Việt ,
_Chị
còn có , lòng nhân ái , như
chuyện ( nuôi nhiều con gái), nuôi, giúp đỡ gia đình người anh
, các cháu
như
đã thấy .
Như
vậy là kết thúc cả một cuộc đời trôi nổi của Chị ; lúc nào cũng lo nghĩ
cho người khác nhiều hơn cho chính mình.Nhưng khổ thay , ngược lại , Chị không
được sống yên ổn, trong tình thương , trong không khí gia đình.
Tôi
tự hỏi là không biết Chị có được chôn cất trong miếng đất phần mộ, mà
Chị đã mua cho chính mình đó hay không ? Thời buổi này , tất cả
những sự không hay đều có thể đến được.
Mai Thế Đức gửi cho blog Mai Trạch &
Gia đình
Paris Mùa Xuân 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét