Trong hai bài viết của Song Mộc về Ấm trà Tử
Sa Nghi Hưng, có nhắc câu Thứ nhứt Thế Đức
gan gà, thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần. Từ đó đến nay, rất
nhiều bạn đọc viết thư hỏi về 3 loại ấm Thế Đức, Lưu Bội và Mạnh Thần. Đây
cũng là đề tài được trao đổi, bình luận nhiều trên mạng internet, liên quan
đến những chiếc ấm đất hiệu đề tương tự đang còn được cất giữ trong các gia
đình Việt Nam và cả những chiếc ấm đang bày bán trên thị trường. Để giúp bạn
đọc rộng đường tìm hiểu, bài viết sau đây trích trong bản thảo
Ấm trà Tử Sa Nghi Hưng của Song Mộc.
Đầu tiên cần xác định, đây không phải là thành ngữ điển tích của người Trung
Hoa, mà là câu thiệu bằng thơ lục bát cho dễ nhớ của các cụ ta (V.N) ngày
xưa, vì vậy “vai vế” thứ nhất, thứ nhì, thứ ba trong câu chỉ là tượng trưng,
xếp theo vần điệu cho dễ nhớ chứ không phải thứ hạng.
Lịch sử và xuất xứ của 3 loại ấm Thế Đức,
Lưu Bội và Mạnh Thần
A. Ấm Mạnh Thần
Trong 3 hiệu Thế Đức, Lưu Bội và Mạnh Thần, ấm Mạnh Thần có niên đại lâu đời
nhất, tác giả là Huệ Mạnh Thần ở Kinh Khê, Nghi Hưng, Giang Tô, không rõ năm
sinh năm mất. Đại khái thời của ông là vào buổi cuối Minh đầu Thanh, khoảng từ
đời Thiên Khải (1621-1627) vị vua áp chót của nhà Minh tới đời Khang Hy
(1662-1722) nhà Thanh. Hiện nay tại Thính Tuyền Sơn Quán ở Trung Quốc còn giữ
một ấm trà làm bằng đất sét trắng, lạc khoản (tên hiệu, niên hiệu đề dưới
trôn đồ gốm sứ) ghi 11 chữ “Thiên Khải Đinh Mão niên Kinh Khê Huệ Mạnh Thần
chế”, từ đó phần nào làm sáng tỏ đối với họ tên, nguyên quán và thời đại sinh
sống của ông.
Ấm Tử Sa Mạnh Thần hiệu đề 6 chữ "Kinh Khê
Huệ Mạnh Thần chế"
Hai chữ Kinh Khê trong lạc khoản là chỉ nguyên quán, nguồn gốc như sau: Nghi
Hưng thời xưa gọi là Kinh Ấp, đến năm Ung Chính thứ 3 đời Thanh, tách làm hai
huyện Nghi Hưng và Kinh Khê, năm 1912 thời Dân quốc đã nhập hai huyện làm một
huyện Nghi Hưng, Kinh Khê trở thành thị trấn. Năm 1983 Nghi Hưng thuộc thành
phố Vô Tích, năm 1988 xóa bỏ huyện Nghi Hưng, thành lập thành phố Nghi Hưng
(thành phố cấp huyện) đến nay.
Tay nghề làm ấm Tử Sa của Huệ Mạnh Thần rất xuất chúng, mang đậm phong cách
riêng, tác phẩm của ông ấm nhỏ nhiều, ấm cỡ trung bình ít, ấm lớn hiếm nhất. Ấm
lớn thì kiểu dáng giãn dị mộc mạc, loại ấm nhỏ lại cực kỳ tinh xảo, tạo hình
của ấm có dáng tròn, dáng dẹt, có thân cao, bụng tròn, hình trái lê hay trái
quýt...
Mỗi chiếc ấm Tử Sa do Huệ Mạnh Thần làm ra đều
là một tác phẩm nghệ thuật, hình dáng thanh bai cân đối, đường nét uyển chuyển,
thân ấm sáng bóng, cốt mỏng tinh xảo, nhất là phần vòi, dù dài hay ngắn đều rất
chắc chắn, rót trà nước chảy thông, không nghẽn không đọng giọt. Những chiếc ấm
nhỏ xinh xắn của ông rất thích hợp trào lưu uống trà công phu (kungfu) lúc bấy
giờ, còn loại ấm hình trái lê thì được xuất khẩu sang nhiều nước châu Âu, có ảnh
hưởng rất lớn đối với công nghệ làm ấm sứ thời kỳ đầu của châu Âu vào thế kỷ
17.
Ấm Mạnh Thần dáng trái lê xuất khẩu sang châu Âu
thế kỷ 17
Ngoài việc coi trọng sự tiện lợi cho người sử dụng và đề cao nét chất phác giản
dị của thân ấm, ông còn đặc biệt quan tâm việc khắc chữ, viết thư pháp trên ấm.
Những chiếc ấm do chính tay Huệ Mạnh Thần làm ra thường đề: “Kinh Khê Huệ Mạnh
Thần chế”, “Văn Hạnh quán Mạnh Thần chế”, “Huệ Mạnh Thần chế” hoặc “Mạnh Thần
chế”. Có một số ấm trên thân có đề năm chế tác hoặc những câu thư pháp nhiều
hơn 10 chữ, nội dung mang ý nghĩa tốt lành. Thời kỳ đầu ấm của ông khắc chữ bằng
dao tre, về sau mới kết hợp in bằng con dấu làm sẵn. Theo các nhà sưu tầm ấm
Tử Sa có kinh nghiệm, sản phẩm tuyệt hảo nhất của Huệ Mạnh Thần là những chiếc
ấm có đóng dấu “Vĩnh Lâm” phía trong nắp.
B. Ấm Thế Đức
Ấm Tích Bao là loại ấm trà xuất hiện vào những năm Gia Khánh và Đạo Quang đời
Thanh (1796-1850), do những danh gia chế tạo ấm, sau đó được các văn nhân vẽ
tranh, viết thư pháp, đề thơ. Ấm làm bằng đất Tử sa, thân bọc thiếc. Núm nắp,
quai, vòi được tô điểm bằng cách khảm ngọc, chạm trỗ tinh vi, rất được giới
văn nhân tao nhã yêu thích.
Ấm Tích Bao
Chu Kiên (1772-1830) tự Thạch Mai, hiệu Thạch My, quê ở Thiệu Hưng, Chiết
Giang, có sở trường giám định và am hiểu kỹ thuật vẽ tranh trên gốm sứ. Thời
đó đang thịnh hành dùng hai loại ấm Tử Sa và Tích Bao để uống trà, Chu Kiên
chính là người hợp nhất hai loại ấm này, ông mua những ấm trà của Dương Bành
Niên về khảm ngọc lên quai, vòi, nắp và thân ấm, làm thành ấm “Tử Sa Tích
Bao”. Ngoài Chu Kiên, thời đó có nhiều nghệ nhân Tử Sa khác cũng chế tác ấm
Tích Bao cung cấp cho thị trường đang rất “nóng”, đặc biệt là Dương Bành
Niên, hiện nay nhiều nhà sưu tập còn cất giữ những chiếc ấm Tích Bao rất quý
của ông.
Ấm Tích Bao của Dương Bành Niên
Ấm Tích Bao của Chu Kiên hiệu đề "Thế Đức Đường"
Ảnh trên là chiếc ấm Tích Bao cao 10,5cm, dạng hình học, nắp bằng, vòi thẳng,
cốt làm bằng đất tử sa, bên ngoài bọc thiếc, vòi, quai, núm nắp ấm đều có khảm
ngọc. Trên lớp thiếc bọc ngoài thân ấm một bên vẽ tranh sơn thủy, nhà cửa,
cây cối, ghềnh đá, núi non chập trùng. Một bên có khắc chữ và dấu ấn, trải
qua hàng trăm năm lớp thiếc bọc ấm bị ăn mòn, chỉ còn đọc được bốn chữ không
liền mạch và không đủ câu: “Thạch Mai...Tuyền Hỏa...”, dưới đáy ấm có dấu lạc
khoản hình vuông, khắc chữ “Thế Đức Đường”. Có thể khẳng định đây là chiếc ấm
Tích Bao của Chu Kiên, làm cho Thế Đức Đường vào những năm Đạo Quang nhà
Thanh.
Ấm Tích Bao
Cái tên Thế Đức Đường bao hàm ý nghĩa đời đời công nhận đức hạnh của tổ
tiên và gia tộc họ Tào ở thị trấn cổ Tô Châu, tòa nhà lớn này xây dựng vào đời
Đạo Quang, hai mặt trước sau có 5 cổng lớn, tổng cộng 69 phòng ốc. Năm Quang
Tự 32 đời Thanh (1906), tòa nhà được cải tạo, xây dựng lại, những bức tường bao
quanh tòa nhà trở thành 6 cửa hiệu mặt tiền, phía trước là cửa hàng buôn bán
sầm uất, phía sau là phố phường nhộn nhịp, bán đủ loại mặt hàng, nổi tiếng gần
xa với sản phẩm rượu Bản Thiệu (Thiệu Hưng) và nước tương Bạch Nguyên. Về sau
con cháu họ Tào tiếp tục phát triển ngành nghề kinh doanh, trong đó có cả mặt
hàng gốm sứ, ấm Tử Sa, ấm Tích Bao... tuy không tự mình làm ra sản phẩm,
nhưng họ đặt lò sản xuất rồi bao tiêu, vì vậy mà sản phẩm đề hiệu “Thế Đức”
hay “Thế Đức Đường”.
Ấm Tích Bao (chữ "tích" nghĩa tiếng Việt
là "thiếc")
Vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 loại ấm Tích Bao này được làm giả
và xuất khẩu rất nhiều sang các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Tới
đây, chúng ta có một phát hiện thú vị: Tên gọi của loại ấm này là “Tích Bao hồ”,
dịch sang tiếng Việt là “bình Tích Bao” (1), điều này giải thích vì sao người
Việt, đặc biệt ở Nam bộ, gọi chung các loại ấm trà bằng cái tên rất phổ biến:
“bình tích”, “ấm tích”.
______
(1)
"Tích Bao hồ" dịch sát nghĩa là "bình bọc thiếc", Tích
Bao là tiếng Hán Việt, cũng như người Việt gọi ấm Tử Sa chứ không gọi "ấm
Cát tím".
C. Ấm Lưu Bội
Lạc khoản "Thiệu Cảnh
Nam chế"
Thiệu Cảnh Nam (1796-1874) là một danh gia chế tác ấm Tử Sa dưới triều Đạo
Quang, hiệu Lưu Bội chủ nhân, cùng thời với các nghệ nhân Tử Sa tên tuổi: Thiệu
Đại Hanh, Huỳnh Ngọc Lân, Phùng Thể Hà, Thiệu Nhị Tuyền, Du Quốc Lượng...ông
nổi tiếng làm ra chiếc ấm nhỏ gọi là Zhuni (Chu nê - bùn đỏ).
Ấm Zhuni Lưu Bội, dưới đáy khắc chữ "Thiệu Cảnh
Nam ấn"
Chiếc ấm Zhuni trong ảnh trên thân cao 6,8cm, chiều ngang đo từ quai đến miệng
bình 12,2cm, đáy bằng phẳng, thân tròn. Nắp ấm hơi lồi, núm tròn, tương ứng với
nắp và thân ấm. Vòi ấm hơi cong và hướng nhẹ lên trên, quai ấm có hình dáng
như vành tai, nhằm tạo hiệu quả hài hòa về mặt thị giác cho người dùng, điều
này chứng tỏ người làm ra chiếc ấm có ý tưởng sáng tạo rất tinh tế. Trên thân
ấm, tác giả dùng dao tre khắc hai câu thơ “Hồ trung nhật nguyệt trường/
Sơn dung vô y dạng”, ý nói “Việc thưởng trà có thể quên cả thời gian và
không gian”, bên cạnh ký Lưu Bội, dưới đáy ấm có khắc dấu “Thiệu Cảnh Nam ấn”
bằng thể chữ Lệ thư.
Ấm Lưu Bội
Ấm Lưu Bội (giả cổ) làm riêng cho thị trường Việt
Nam những năm đầu thế kỷ 20
Từ tay nghề đến tạo hình chiếc ấm, hay cách tô điểm trên thân ấm, cho thấy
đây là một chế phẩm thượng hạng. Ngoài ấm Zhuni, Thiệu Cảnh Nam còn làm một
loại ấm tương tự, nhưng trên nắp ấm có thêm một đường viền tinh xảo, thân ấm
cũng dùng dao tre khắc hai câu thơ “Kim ba sơ phiếm thể/ Ngọc vũ sạ sinh
huy” (Mặt trăng vừa ló dạng, bầu trời liền ngời sáng), ký Lưu Bội, đáy ấm
khắc dấu triện “Thiệu Cảnh Nam”. Cách thức tạo ấm và kiểu thư pháp của hai loại
ấm này chính là phong cách đặc trưng của tác giả, có thể dùng làm căn cứ khi
giám định ấm Lưu Bội thật và giả.
SM 7.2009
link xem nguyên bản : http://www.songmoc.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=57:timhieu3hieuamtratheducluuboivamanh-than&catid=37:nghiencuu&Itemid=30
|